Cả đất trời như nằm gọn trong ta. BÀI THƠ HAY TRONG PHIM TAM QUỐC DIỄN NGHĨA. Trường Giang cuồn cuộn đổ về Đông Bao lớp sóng xô bấy lớp anh hùng Ngoảnh đầu lại nhân tình thế thái Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không Biết mấy tịch dương nhuộm hồng sóng nước.
Phim Tân Tam Quốc HTV2 (95/95 Tập Cuối) trọn bộ lồng giờ mình cũng giống như bao fan khác say đắm xem phim tam quốc diễn nghĩa từ thời gian còn bé dại nay tam quốc diễn nghĩa ra phiên bạn dạng mới Tân Tam Quốc là bộ phim truyền hình kinh điểm độc nhất của china đã phát hành trên kênh htv2, văn bản phim Tân Tam Quốc
Các bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩa. 1) Bài thơ đầu phim. Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông? Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng, Thị phi thành bại theo dòng nước, Sừng sững cơ đồ bỗng tay không. Núi xanh nguyên vẹn cũ.
Bài hát trong phim Tam Quốc Diễn Nghĩa: "Trường Giang Cuồn Cuộn Chảy Về Đông" có phiên âm và lời dịch
Các nhân vật trong tác phẩm được tác giả khác họa rõ nét có nhiều điểm khác với nhân vật trong lịch sử BÀI THẢO LUẬN NHÓM 2 LỚP VĂN HỌC K53 5 TAM QUỐC DIỄN NGHĨA Câu 2: Dựng lại sơ đồ cốt truyện của Tam quốc diễn nghĩa theo trục thời gian từ năm 184 đến năm 280
Tân Tam Quốc Diễn Nghĩa 2013 HTV2 (95/95 Tập) (Trọn Bộ) Lồng Tiếng Bản Đẹp Nhất. Phim lấy 6 nhân vật trung tâm là Gia Cát Lượng, Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền, Chu Du và Tư Mã Ý, bên cạnh đó là tuyến nhân vật chính và phụ đông đảo: Lã Bố, Đổng Trác, Vương Doãn, Viên
Các đề tài chính bao gồm, thông tin về tất cả các nhân vật trong tiểu thuyết tam quốc diễn nghĩa, các bộ phim về tam quốc, các tựa game có chủ đề liên quan tới tam quốc, các bộ sách, các câu chuyện, các bài học được đúc kết ra từ tam quốc chí….và nhiều nội dung
iN36an. Trong 84 tập phim Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác giả La Quán Trung đã xây dựng thành công rất nhiều hình tượng đặc sắc của các nhân vật nổi tiếng, để lại biết bao câu nói bất hủ khiến người xem không ngừng cảm khái và nhớ mãi. Những câu nói mà bất cứ một người yêu Tam Quốc nào cũng đều muốn “học thuộc lòng”. Chúng ta đều biết, Tam Quốc diễn nghĩa cũng là một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc bên cạnh Thủy Hử, Hồng lâu mộng và Tây Du Kí. Nội dung xuyên suốt chủ yếu của tác phẩm kinh điển này nói về cuộc đấu tranh giữa ba thế lực phong kiến bao gồm nhà Ngụy do Tào Tháo đứng đầu, nhà Thục do Lưu Bị đứng đầu và nhà Ngô do Tôn Quyền đứng đầu trong việc nhất thống thiên hạ. Tuy nhiên cái kết cuối cùng lại hết sức bất ngờ khi giang sơn lại rơi vào tay con cháu của Tư Mã Ý, vốn là một đại thần trong triều Ngụy. Không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn học mang tính sử thi, Tam Quốc Diễn Nghĩa còn để lại những giá trị nhân văn đầy sâu sắc cho biết bao thế hệ người đọc trên toàn thế giới. Và chúng ta hãy cùng nhau xem lại 21 câu nói kinh điển của các nhân vật nổi tiếng trong bộ tiểu thuyết này nhé. 1. Tào Tháo – “Ta thà phụ người chứ quyết không để người phụ ta” Câu nói này được Tào Thào nói với Trần Cung khi Trần Cung hỏi Tào A Man rằng tại sao lại giết cả Lã Bá Sa mặc dù biết được gia đình ông ta không hề có ý định hãm hại mình, mà trái lại còn bày tiệc chiêu đãi? Nó thể hiện một góc tính cách của ông man trá, lạnh lùng đến đáng sợ. Tào tháo, một gian hùng nhưng cũng là một anh hùng, luôn mang trong mình tư tưởng đa nghi. Vốn sinh ra tài giỏi hơn người, tính tình hào hoa phóng đãng nhưng nhiều mưu mẹo, có tài dụng quân, cai trị thiên hạ. Việc ông giết cả nhà Lã Bá Sa âu cũng chỉ vì bất đắc dĩ, do giải nhầm những “tín hiệu” trong đêm, lúc tâm ông không tĩnh, vì đang bị truy sát, mà tưởng là kẻ thù đã đến nên mới ra tay tàn độc đến thế. Nhưng tự sâu thẳm Tào Tháo không hề muốn sau này, khi xem cách ông nhìn nhận và trọng dụng nhân tài là biết, nhưng vì quá đa nghi và thông minh mà ông mới có nét tính cách “nguy hiểm” đến vậy. Đó cũng chính là lý do vì sao người ta gắn cho ông cái mác “gian” vào chữ “hùng”, để trở thành một nhân vật “gian hùng” nhất thời Tam Quốc. Tạo nên một nhân vật rất độc đáo đặc biệt, người ta có thể chê ông, chửi ông, nhưng chắc chắn một điều rằng, ai cũng phải “nể” ông, và có rất nhiều điều phải “học hỏi” từ ông… một nhân vật quá xuất chúng, không thể bàn cãi. 2. Gia Cát Lượng – “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Số trời đã định, không thể cưỡng lại” Một trong những người được vinh danh muôn đời sau không ai khác là Gia Cát Lượng, phò tá của Lưu Bị. Sự kiệt xuất của ông khiến kẻ thủ phải cúi đầu kính nể, hậu thế phải nghiêng mình bái phục qua rất nhiều điển tích, trận đánh lớn. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” – Số trời đã định, làm sao cưỡng lại! Kỳ nhân như Gia Cát Lượng ngàn năm khó kiếm, mang trong mình trí huệ tuyệt vời của người tu Đạo, được mệnh danh là “liệu sự như Thần”, tức chỉ có thể là “Thần” mới tính được đến mức ấy, là người thì không thể! Ấy vậy mà trong cuộc đời ông, ông cũng không thể nào tránh khỏi “thiên ý”, vốn là sự sắp đặt của định mệnh, của những sinh mệnh tầng cao hơn hẳn ông, vốn đã “an bài” toàn vẹn trật tự xã hội, sự thịnh suy của các triều đại, và của cả từng cá nhân mỗi một con người… Như lần đốt cha con Tư Mã Ý thất bại vì mưa trên trời tự nhiên’ rơi xuống, cản Lưu Bị tránh khỏi thất bại trong trận Di Lăng không được, lục xuất kỳ sơn nhiều lần suýt thắng thì bị điều về Tứ Xuyên, cầu sống lâu thêm 10 năm nữa để phục dựng sự nghiệp nhà Hán cũng bất thành,… tất cả đó đều là “ý trời”, trời muốn “biến” thì không ai cản nổi… chỉ có thuận theo tự nhiên mới là bậc trí giả, kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt. 3. Lưu Bị – “Thà chết chứ không làm chuyện bất nhân bất nghĩa” Song hành cùng Gia Cát Lượng trong cuộc hành trình chinh phạt Tào Nguỵ là Lưu Bị với triết lí sống ngược lại Tào Tháo “Thà chết chứ không làm chuyện bất nhân bất nghĩa”. Chính vì điều này nên Lưu Bị, mặc dù chỉ là anh bán dép ngoài phố, đã lấy lòng được các anh hùng trong thiên hạ như 2 anh kem Trương Phi – Vân Trường, “thần nhân” Gia Cát Lượng, Triệu Tử Long, Mã Siêu, Hoàng Trung,… và hàng ngàn hàng vạn dân chúng thời bấy giờ, lập nên đại nghiệp hùng tráng, chấn động lịch sử. 4. Chu Du – “Trời đã sinh ra Du sao còn sinh ra Lượng” Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Chu Du là đại danh từ tượng trưng cho lòng dạ hẹp hòi, không chịu thua ai, cũng chỉ khi ông ta bệnh nặng vô phương cứu chữa, không còn sống được bao lâu nữa, mới cảm khái mà thốt ra câu nói này từ tận đáy lòng. Chỉ có điều là câu nói này quá tự ti, tôn vinh chí khí của Gia Cát Lượng, mà hạ mất uy phong của chính mình. Khiến cho hình tượng của hai người này đã định rõ vị trí trong đầu của mọi người mãi về sau. Thực chất, lịch sử cũng giống như một màn kịch, và để con người có thể hiểu thế nào là thiện-ác, đúng-sai, tốt-xấu thì đều cần người đến đễ “diễn” một phen, mới thấu tỏ được hàm nghĩa của từ đó. Trong câu chuyện này, Chu Du vốn là 1 đại đô đốc, một vị anh hùng cái thế nhà Đông Ngô, trí tuệ và uy dũng hơn người, nhưng vạn bất đắc dĩ, lịch sử lại “chọn ông” để đóng cái vai “ghen tỵ” ấy, nếu không thì sẽ khó có thể khiến cho con người hiểu được thế nào là “ghen tỵ”. Hoặc cũng có thể đây chỉ là thổi phồng trong tác phẩm nghệ thuật, với bàn tay cố ý sắp đặt của tác giả, cũng là để nhấn mạnh tình tiết ấy, chứ chưa hẳn trong lịch sử Chu Du là người như vậy. Nhưng có thể khẳng định, Đông Ngô có được 1 người như Chu Du quả là quá may mắn! 5. Lưu Bị – “Khắp người Tử Long đều là gan” Đây là lời bình hăng say nhất của những ai hâm mộ Triệu Vân hay Triệu Tử Long, nguyên là trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Triệu Vân không phải là đối tượng được tác giả tập trung miêu tả, nhưng vì mỗi lần ông ra trận đều là tư thế hiên ngang hùng dũng, đánh đâu thắng đó, có thể được một câu khẳng định của Lưu Bị như vậy, tất nhiên là quá là vui mừng rồi! Còn nhớ trong trận Đương Dương Trường Bản, một mình Triệu Tử Long xung pha trận mạc, lọt giữa đại quân Tào Tháo, vẫn chiến đấu bất khuất, giết chết hơn 50 tướng địch, khiến ngay cả Tào Tháo cũng bội phục, từ đó giải cứu thành công ấu chúa A Đẩu, vang danh thiên hạ. Lòng can đảm, ý chí và sự trung thành ấy khiến người đời sau mỗi lần nhắc đến ông đều vô cùng cảm khái, và dành tặng cho ông một tình cảm vô cùng đặc biệt mà hiếm một nhân vật nào xuất hiện “không nhiều” mà lại được mến mộ đến thế. 6. Tào Tháo – “Sinh con thì phải được như Tôn Trọng Mưu” Tôn Trọng Mưu chính là tên tự của Tôn Quyền. Nhiều người khi mới đọc không hiểu hàm nghĩa của câu nói này của Tào Tháo, rốt cuộc là ông đang khen Tôn Quyền hay đang mắng Tôn Quyền đây. Sau này mới biết, kì thực Tào Tháo là thế hệ cùng thời với Tôn Kiên, cha của Tôn Quyền, nên ông nói câu này cũng không có gì lạ cả. Ngoài ra, ý của Tào Tháo chính là khen Tôn Quyền có thể giữ được cơ nghiệp của cha anh để lại qua bao phen sóng gió thời loạn thế, so với những đứa con bại trận của Viên Thiệu và Lưu Biểu thì quả là khác nhau một trời một vực. Khó trách Tào lại ngậm bồ hòn làm ngọt, rất khen ngợi Tôn Quyền, tự mình nói ra mấy lời này. 7. Tư Mã Huy – “Phục Long, Phượng Sồ, có được một trong hai, ắt được thiên hạ” Tư Mã Huy vô cùng coi trọng Gia Cát Lượng và Bàng Thống, ông từng ví Gia Cát Lượng với Khương Thượng Khương Tử Nha thời nhà Chu, Trương Lương thời nhà Hán, vậy nên những lời này từ miệng ông nói ra cũng không có gì là lạ. Cả hai đều là bậc kỳ tài trong thiên hạ, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, do đó những lời này cũng không phải là nói quá chút nào. Tuy nhiên điều kỳ lạ là Lưu Bị đều có được hai người này, nhưng lại không thể bình định được thiên hạ, không thể không khiến người ta suy ngẫm. Thực ra như đã nói ở trên, đó cũng chính là vì “thiên ý” đã định, chứ không phải nói 2 người này không giỏi. Khí số nhà Hán đã mạt, cần thay đổi triều đại, cũng giống như con người, đến lúc già, phải chết thì sẽ phải chết thôi, cố gắng uống thuốc hay làm gì để kéo dài thọ mệnh cũng khó lòng thay đổi được số phận. Nhưng qua đây mới thấy, dù khí số nhà Hán đã cạn, đến thời Hán Hiến Đế là rơi vào tay Tào Tháo, ấy vậy mà sự xuất hiện của Gia Cát Lượng đã khiến bánh xe lịch sử “chậm lại”, vẫn khiến xuất sinh 2 vị Hoàng Đế cuối cùng của nhà Hán là Lưu Bị và con trai ông, điều này cho thấy tài năng của Gia Cát Lượng là hoàn toàn vượt xa sự tưởng tượng!
Giải tríNhạcLàng nhạc Thứ bảy, 31/7/2021, 1737 GMT+7 Trung QuốcVương Kiện - người viết lời cho nhiều bài hát trong "Tam Quốc diễn nghĩa" bản kinh điển 1994 - mất ở tuổi 93. Theo Beijingnews, bà mất vì bệnh tật, tuổi già. Lần cuối bà xuất hiện công khai là ở chương trình văn nghệ của đài CCTV năm 2020. Bấy giờ, ở tuổi 92, giọng bà to, rõ ràng, vẫn đọc chính xác ca từ của nhiều bài hát bà từng viết. Mao A Mẫn hát "Bầu trời lịch sử" - nhạc phim "Tam Quốc diễn nghĩa". Video Kiện sinh ở Bắc Kinh, sáng tác văn, thơ từ năm 1947. Từ năm 1954, bà làm việc ở Hiệp hội Nhạc sĩ Trung Quốc. Năm 1991, Vương Kiện gia nhập tổ Âm nhạc của đoàn phim Tam Quốc diễn nghĩa, đảm nhận viết lời. Bà viết ca từ cho chín bản nhạc, trong đó có Bầu trời lịch sử - ca khúc cuối tác phẩm hay Điêu Thuyền đã theo gió bay - bài vang lên ở một số đoạn về nhân vật Điêu Thuyền Trần Hồng đóng. Người hợp tác Vương Kiện, viết nhạc cho tác phẩm là Cốc Kiến Phân. Vương Kiện áo đen khi làm việc cùng Cốc Kiến Phân và khi ngoài 90 tuổi. Ảnh Bjnews. Vương Kiện, Cốc Kiến Phân được mệnh danh "cặp bài trùng" của làng nhạc, khi hợp tác viết lời và nhạc cho nhiều ca khúc kinh điển. Thời làm Tam Quốc diễn nghĩa, từng có người cho rằng "phụ nữ không thể viết nhạc cho phim về đàn ông". Song qua gần 30 năm, các bản nhạc trong tác phẩm truyền hình vẫn được đông đảo khán giả yêu thích. Lời bài hát được đánh giá đẹp, sâu sắc trong khi nhạc lúc hùng tráng khi da diết. Nhạc cuối phim "Tam Quốc diễn nghĩa". Video sáng tác ca từ, Vương Kiện xuất bản nhiều cuốn sách, phần lớn là tuyển tập tản văn. Năm 1994, bà ra mắt cuốn Tái dựng anh hùng, kể quá trình Tam Quốc diễn nghĩa từ nguyên tác văn học tới phim truyền hình. Bà phỏng vấn nhiều thành viên trong ê-kíp để thực hiện cuốn Anh theo Beijingnews
Tam Quốc diễn nghĩa là một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc làm đắm lòng không biết bao đọc giả khắp nơi trên thế giới. Nhiều học giả còn đưa ra lời bình Tam Quốc diễn nghĩa rằng ít ai có thể thấu tỏ nội dung sâu sắc truyền tải nhiều thông điệp của tác phẩm này. Điểm lại những câu nói bất hủ trong tác phẩm này, chúng ta có thể hiểu hơn về điều đó. Tranh “Tam cố nhất ngộ” kể về điển tích Lưu Bị ba lần tìm gặp Khổng Minh nhưng đến lần thứ ba mới thỉnh mời được vị quân sư tài ba này. “Nhân trung Lữ Bố, mã trung Xích Thố”, tức người thì phải được như Lữ Bố, ngựa thì phải là ngựa Xích Thố. Chỉ vỏn vẹn với 8 chữ nhưng lại ca ngợi hai sự vật, đủ để thấy được rằng bút pháp thời xưa ngôn ngữ tinh tế mà ý nghĩa lại vô cùng sâu xa. Hơn nữa câu văn còn sáng sủa dễ đọc, ngay đến cả đàn bà trẻ nhỏ cũng đều thuộc lòng một cách dễ dàng. Về sau, Quan Vũ tuy cũng có được ngựa Xích Thố, nhưng cũng chưa từng nghe ai nói như vậy cả, đoán chắc rằng tác giả ắt hẳn phải là người hâm mộ của Lữ Ôn Hầu rồi. “Ngũ Thường họ Mã, Bạch Mi giỏi nhất” Năm người con trai nhà họ Mã, tên tự lần lượt là Bá Thường, Trọng Thường, Thúc Thường, Quý Thường, Ấu Thường, nên gọi là Ngũ Thường. Chân mày của Mã Lương, tức là Quý Thường có màu trắng, nên người đời gọi là “Bạch Mi”, do đó mới có câu “Ngũ Thường họ mã, Bạch Mi giỏi nhất”. Trong năm anh em, người được nhiều người biết đến nhất chỉ có hai anh em Mã Lương và Mã Tốc Ấu Thường. Mã Lương thật sự là bậc kì tài, tài hoa xuất chúng, ông đã bỏ không ít công sức trong việc giúp Lưu Bị ngồi vững ở Tây Xuyên, đáng tiếc là ông mất quá sớm. Tuy nói sự thông minh của Mã Tốc cũng khá là cao, cũng nhiều lần được Gia Cát Lượng khen ngợi, chỉ đáng tiếc về sau, ông đã đi sai một nước cờ, để mất Nhai Đình. Do vậy, khi người ta đọc đến câu này, một là tiếc cho Mã Lương đã mất quá sớm, hai là tiếc thay Mã Tốc thông minh cả đời, nhưng lại hồ đồ một lúc. “Hết lòng tận tụy, đến chết mới thôi” Có người nói “Hậu xuất sư biểu” không phải là của Gia Cát Lượng viết. Trước hết, cho dù là ai viết đi nữa thì “hết lòng tận tụy, đến chết mới thôi” ở đây chính là khắc họa chân thật nhất về Gia Cát Lượng, cũng là biểu hiện tâm tình rõ nhất của Gia Cát Lượng khi sáu lần ra Kỳ Sơn nhưng không thay đổi được mệnh trời vào lúc cuối đời, nó cũng đã trở thành một câu nói ngoài cửa miệng của người thời nay. Khổng Minh ngồi điềm nhiên gảy đàn trong “Không thành kế” “Trời đã sinh ra Du, sao còn sinh ra Lượng” Trong “ Tam Quốc diễn nghĩa”, Chu Du là đại danh từ tượng trưng cho lòng dạ hẹp hòi, không chịu thua ai, cũng chỉ khi ông ta bệnh nặng vô phương cứu chữa, không còn sống được bao lâu nữa, mới cảm khái mà thốt ra câu nói này từ tận đáy lòng. Chỉ có điều là câu nói này quá tự ti, tôn vinh chí khí của Gia Cát Lượng, mà hạ bệ uy phong của chính mình. Khiến cho hình tượng của hai người này đã định rõ vị trí trong đầu não mọi người. “Khắp người Tử Long đều là gan!” Đây là lời bình hăng say nhất của những ai hâm mộ Triệu Vân hay Triệu Tử Long, nguyên là trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Triệu Vân không phải là đối tượng được tác giả chú trong miêu tả, nhưng vì mỗi lần ông ra trận đều là tư thế hiên ngang hùng dũng, đánh đâu thắng đó, có thể được một câu khẳng định của chủ nhân như vậy, tất nhiên là vui mừng đến nỗi không còn biết trời đất gì nữa. Tuy nhiên, điều này cũng cho thấy Lưu Bị không có tài dùng người, bởi Triệu Vân đã theo ông nhiều năm như vậy, đến lúc này mới biết được can đảm của ông, bình thường chỉ giúp ông các việc lặt vặt như vận chuyển lương thảo, thu dọn chiến trường, bảo vệ gia quyến, quả thật là lãng phí nhân tài. “Phục Long, Phượng Sồ được một trong hai, ắt được thiên hạ”. Tư Mã Huy vô cùng coi trọng Gia Cát Lượng và Bàng Thống, ông từng ví Gia Cát Lượng với Khương Thượng, Trương Lương, vậy nên những lời này từ miệng ông nói ra cũng không có gì là lạ. Cả hai đều là bậc kỳ tài trong thiên hạ, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, do đó những lời này cũng không phải là nói quá chút nào. Tuy nhiên điều kỳ lạ là Lưu Bị đều có được hai người này, nhưng lại không thể bình định được thiên hạ, không thể không khiến người ta suy ngẫm. “Việc trong không ổn hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không ổn hỏi Chu Du” Tôn Sách khi nắm quyền thường là sách lược thì thiếu, khí phách có thừa’, không ngờ rằng ông lại vẫn có tài nhìn người như vậy, lúc trước tín nhiệm Thái Sử Từ về thành chiêu hàng mọi người, trước khi chết còn để lại cho Tôn Quyền những lời khuyên chân thành như thế, nhận ra phong cách xử sự của hai người này. Sự thật cũng đã chứng minh tính chuẩn xác trong lời ông nói, về đối ngoại thì Trương Chiêu chủ trương đầu hàng Tào Tháo, về đối nội thì Chu Du đem em gái của Tôn Quyền hồ đồ mà gả cho Lưu Bị, mà khi hai người làm những việc này lại làm được gần như hoàn mỹ. “Sinh con thì phải được như Tôn Trọng Mưu” Tôn Trọng Mưu chính là tên tự của Tôn Quyền. Nhiều người khi mới đọc không hiểu hàm nghĩa của câu nói này của Tào Tháo, rốt cuộc là ông đang khen Tôn Quyền hay đang mắng Tôn Quyền đây. Sau này mới biết, kì thực Tào Tháo là thế hệ cùng thời với Tôn Kiên, cha của Tôn Quyền, nên ông nói câu này cũng không có gì lạ cả. Ngoài ra, ý của Tào Tháo chính là khen Tôn Quyền có thể giữ được cơ nghiệp của cha anh để lại, so với những đứa con bại trận của Viên Thiệu và Lưu Biểu thì quả là khác nhau một trời một vực. Khó trách Tào lại ngậm bồ hòn làm ngọt, rất khen ngợi Tôn Quyền, tự mình nói ra mấy lời này. “Anh hùng trong thiên hạ, chỉ có sứ quân và Tháo thôi!” Có người cho rằng, trong tất cả những lời mà Tào Tháo từng nói qua, câu nói này là sâu sắc nhất. Khó trách Lưu Bị sợ đến nỗi làm rơi cả muỗng, ngay cả ông trời cũng phải rùng mình một cái, tưởng rằng thiên cơ đã bị tiết lộ rồi. Kỳ thực, Tào Tháo cũng chỉ là buột miệng nói như vậy, mục đích là để thăm dò Lưu Bị, nhưng cuối cùng lại bị Lưu Bị làm cho hồ đồ, phủ nhận câu nói chuẩn xác nhất trong suốt cuộc đời của mình. “Quan giỏi thời thịnh thế, gian hùng thời loạn lạc” Câu nói này, không chỉ là đã đặt định ra tính cách một đời cho Tào Tháo, mà cũng nói ra năng lực của ông, trong thời thịnh thế, ông là quan thần trị quốc an bang, trong thời loạn lạc thì là thủ lĩnh quân sự độc bá một phương. Một điều khác cũng khiến cho Tào Tháo vui mừng ra mặt khi nghe được câu nói này, nó không hề có dụng ý rằng ông có thể trở thành hoàng đế, và ông cũng không muốn đăng cơ xưng đế, để rồi trở thành một loại người giống như Vương Mãng, Đổng Trác trong sử sách. Tiểu Thiện, dịch từ NTDTV
Vào cuối thời Đông Hán, một triều đại kéo dài 400 năm lịch sử dần bắt đầu đi đến hồi kết, triều đình thối nát, hoạn quan chuyên quyền, quan lại tham nhũng, nạn đói hoành hành. Là bối cảnh xã hội của Trung Hoa lúc bấy giờ. Đổng Trác, 1 thế lực đến từ phía tây bắc đem quân tiến vào kinh thành tiêu diệt hoạn quan, khống chế triều chính lập vị vua trẻ tuổi là Hán Hiến Đế lên ngôi. Tự phong mình là Thái Sư, nắm trọn toàn bộ quyền lực. Năm 190, liên minh các sứ quân do Viên Thiệu cầm đầu đã khởi binh nổi dậy ở các tỉnh miền đông chống lại Đổng Trác. Sau cuộc chiến, dưới áp lực của liên quân Đổng Trác phải mang theo Hiến Đế chạy về phía Tây tới Trường An vào năm 191. 1 năm sau, vì mắc mỹ nhân kế của Vương Doãn, ông bị con nuôi của mình là Lã Bố giết chết. Cũng từ sau cái chết của Đổng Trác, liên minh các sứ quân tan rã, các lãnh chúa địa phương vì sự tranh giành đất đai và quyền lực quay sang tấn công lẫn nhau. Đổng Trác chết, các bộ tướng dưới quyền là Lý Thôi, Quách Dĩ cũng tranh nhau quyền lực. Nhân cơ hội đấy, Hiến Đế tháo chạy khỏi kinh thành. Năm 196, ông được Tào Tháo hộ giá về Hứa Đô, tưởng chừng quyền lực hoàng đế sẽ được khôi phục nhưng lại bị Tháo sử dụng như con bài được gọi là "nắm Thiên Tử lệnh chư hầu". Lúc này Trung Hoa bị phân chia giữa các thế lực quân phiệt đáng gờm như Viên Thiệu ở Ký Châu đối đầu với Công Tôn Toản ở phía bắc, ở Từ Châu có Lưu Bị - mang trong mình máu mủ hoàng tộc cùng 2 người anh em kết nghĩa là Quan Vũ, Trương Phi ôm hoài bão phục hưng lại sự thịnh vượng của nhà Hán. Lã Bố sau khi giết được Đổng Trác, không lâu sau ông cũng bị các thuộc hạ của Trác đuổi đánh khỏi Trường An và hiện đóng quân ở Hạ Bì. Viên Thuật nắm Ngọc Tỉ trong tay và xưng đế ở Thọ Xuân. Xa hơn nữa về phía nam là viên tướng trẻ Tôn Sách xây dựng lực lượng tại khu vực hạ lưu sông Dương Tử, ôm mộng làm chủ miền nam Trung Hoa. Họ Tôn có 1 kẻ thù không đội trời chung trong khu vực đó là Lưu Biểu ở Kinh Châu. Những lãnh chúa khác như Mã Đằng, Lý Thôi,Trương Lỗ, Lưu Chương cũng dáy lên làn sóng tranh giành địa bàn. Chiến sự nổ ra khắp các khu vực tại Trung Hoa. Sử gọi đây là "quần hùng cát cứ". Khi Tào Tháo nắm trong tay vua Hán lực lượng trở nên hùng mạnh, địa bàn từng bước mở rộng; trong vòng 4 năm sau đó, ông lần lượt tiêu diệt Lã Bố ở Từ Châu, thôn tính Viên Thuật ở Thọ Xuân và trở thành phe quân phiệt mạnh nhất phía đông. Cùng lúc, Viên Thiệu cũng đã tiêu diệt đối thủ Công Tôn Toản ở phía bắc và trở thành thế lực mạnh mẽ nhất mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Đô. 2 tập đoàn quân phiệt mạnh nhất Trung Hoa được hình thành. Viên Thiệu với 70 vạn đại quân có tham vọng tiến xuống miền nam tranh thiên hạ. Lúc bấy giờ, Tào Tháo chỉ có trong tay quân để chống lại Viên Thiệu. Sau nhiều tháng lập kế hoạch, 2 bên đã giao tranh tại Quan Độ. Nhờ phát hiện và đốt cháy kho lương của quân Viên, Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến Viên Thiệu đại bại tan nát. Không lâu sau đó, Viên Thiệu suy sụp và bệnh mất. Các con trai của ông ta tranh quyền đoạt vị và tàn sát lẫn nhau. Tháo giành hoàn toàn thế chủ động. Vào năm 207, Tào Tháo tiêu diệt hoàn toàn thế lực tàn dư các con trai Viên Thiệu thống trị toàn bộ miền bắc Trung Quốc. Sau khi liên minh với Viên Thiệu bị tan vỡ, Lưu Bị phải chạy về Kinh Châu nương náu dưới trướng Lưu Biểu. Năm 208, Tào Tháo xuất quân nam chinh với ý định nhanh chóng thống nhất đế chế. Trước tình cảnh đó, Lưu Bị 3 lần thăm lều tranh và chiêu mộ được quân sư Gia Cát Lượng. Lượng đề ra kế sách "liên Ngô kháng Tào" và áp dụng ngay sau đó. Nghe tin quân Tào nam tiến, con Lưu Biểu là Lưu Tòng đầu hàng và dâng đất Kinh Châu. Tào Tháo có đất mà chả tốn 1 binh sĩ nào. Trong tình thế nguy cấp, Lưu Bị sai sứ sang Giang Đông đề xuất liên minh kháng Tào Tháo. Tôn Quyền lúc này người kế vị Tôn Sách ở Giang Đông mở cuộc họp bàn bạc với các mưu sĩ, cuối cùng ông cũng ra quyết định cùng Lưu kháng Tào. Mùa đông năm 208, Tào Tháo triển khai 1 lực lượng thủy quân lên đến 80 vạn quân hướng thẳng vào Giang Đông. Đại đô đốc Chu Du thống lĩnh thủy quân Giang Đông nghênh chiến quân Tào ở Xích Bích. Liên quân Tôn - Lưu lúc này chỉ có 5 vạn, quân Tào do đến từ phương bắc nên không thạo thủy chiến lại bị say sóng, nên Tháo lệnh cho các tàu chiến xích lại với nhau. Vì thế mà Chu Du dễ dàng sử dụng hỏa công thiêu rụi 80 vạn quân Tào trên sông chỉ trong 1 đêm. Sau trận chiến Lưu Bị thừa thắng chiếm đất Kinh Châu của quân Tào và các thành trì ở phía nam. Năm 214, Lưu Bị đưa quân vào Ích Châu và đánh bại Lưu Chương trở thành 1 thế lực tầm cỡ, đối trọng với Tào Tháo ở phía bắc. Sau khi thua trận Xích Bích, Tào Tháo khôi phục lại lực lượng. Sau đó đem quân triệt tiêu các thế lực cát cứ còn lại ở phía tây như Mã Siêu, Hàn Toại, Trương Lỗ. Năm 219, tướng trấn giữ Kinh Châu của phe Lưu Bị là Quan Vũ xuất chinh bắc tiến vây hãm Phàn Thành. Trước thế tiến công như vũ bão, quân Tào không chống đỡ nổi. Nhân cơ hội Lưu Bị và Tôn Quyền đang bất hòa về việc tranh chấp lãnh thổ, quân sư Tư Mã Ý của phe Tào hiến lên diệu kế "liên Ngô kháng Quan Vũ". Sau khi đạt được thỏa thuận chung, Tào -Tôn liên minh với nhau, Tôn Quyền phái đại đô đốc Lữ Mông lén lút đánh úp Kinh Châu đồng thời bắt sống và xử tử Quan Vũ. Phàn Thành từ đó cũng được giải vây, Kinh Châu nằm trọn trong tay Tôn Quyền. Một năm sau, Tào Tháo bệnh mất ở tuổi 66, con trai ông là Tào Phi lên kế vị, ông phế truất vua Hán chính thức lên ngôi hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngụy; 2 người còn lại là Lưu Bị và Tôn Quyền cũng lần lượt xưng đế hình thành thế chân vạc tam quốc Ngụy - Thục – Ngô. Sau khi xưng đế, Lưu Bị đem 70 vạn đại quân tiến đánh Kinh Châu để trả thù cho người em kết nghĩa Quan Vũ. Đại đô đốc nước Ngô là Lục Tốn kháng cự và sử dụng hỏa công. Lưu Bị thất bại thảm hại, suy sụp và bệnh mất, con trai Lưu Bị là Lưu Thiện lên thay, sai sứ làm hòa với nước Ngô cùng nhau đối địch nước Ngụy. Mùa xuân năm 228, thừa tướng nước Thục là Gia Cát Lượng tiến hành chiến dịch chinh phạt nước Ngụy thống lĩnh 10 vạn quân mã với mục tiêu chiến lược là chiếm đóng Trường An. Sau đó tiến thẳng vào kinh đô nhà Ngụy là Lạc Dương. Ngụy quân đại đô đốc Tư Mã Ý xuất chiến chống trả, chiến tranh Thục - Ngụy kéo dài 6 năm, cả 2 bên đều trong thế giằng co. Do vất vả, mệt nhọc lâu ngày mà sinh bệnh. Gia Cát Lượng không may qua đời trong doanh trại, chỉ thọ được 54 tuổi, học trò của Lượng là Khương Duy lên thay thế tiếp tục công cuộc bắc phạt kéo dài 15 năm. Sau khi đẩy lùi được các cuộc tấn công của quân Thục. Tư Mã Ý đức cao trọng vọng, trở thành trọng thần nước Ngụy. Năm 239, Tư Mã Ý cùng tông thất Tào Sảng làm phụ chính vị vua mới là Tào Phương lên ngôi chỉ mới gần 8 tuổi. Nhằm loại bỏ thế lực họ Tư Mã, Tào Sảng dùng mưu thu hồi binh quyền của Ý. Từ đấy, Tư Mã Ý cáo bệnh xin về hưu nghỉ già. 10 năm sau, nhân cơ hội Tào Sảng và những thân tín không đề phòng, Tư Mã Ý phát động chính biến, giết chết Tào Sảng, xử chém hàng loạt những quan chức trong tôn thất họ Tào đưa gia tộc họ Tư Mã nắm quyền lực toàn diện. Từ đó về sau, các hoàng đế họ Tào đều biến thành bù nhìn của họ Tư Mã. Do các cuộc bắc phạt của Khương Duy đều không mang lại kết quả nước Thục trở nên kiệt quệ và suy yếu. Năm 263, con trai Tư Mã Ý là Tấn Vương Tư Mã Chiêu lúc này đang cầm quyền nước Ngụy, ông cử 2 đại tướng Chung Hội và Đặng Ngải thống lĩnh hơn 10 vạn quân tiến đánh nước Thục. Khương Duy cất binh chống trả, chiến đấu quyết liệt với Chung Hội ở mặt trận phía bắc. Đặng Ngải lúc này đem quân đi đường tắt về phía núi Âm Bình xuống đồng bằng và tiến thẳng vào kinh đô nước Thục. Chúa nước Thục là Lưu Thiện vừa nghe tin đã sợ hãi mà ra đầu hàng. Sau khi vào bên trong Thành Đô thì Đặng Ngải từ trong đánh ra. Chung Hội từ ngoài đánh vào, hình thành 2 mũi giáp công nhanh chóng tiêu diệt nước Thục. Sau khi Thục diệt vong, nhưng Khương Duy vẫn còn nuôi hi vọng phục quốc. Nhận ra Chung Hội và Đặng Ngải có mâu thuẫn từ lâu và cả 2 đều có dã tâm tạo phản, Duy dẫn các tướng Thục đến hàng Chung Hội. Hội và Ngải lúc này đang đấu đá nhau, nhờ kế của Khương Duy, Hội dùng thủ đoạn khiến Ngải bị Tư Mã Chiêu xử tử, loại được 1 kẻ địch ra khỏi cuộc chơi. Sau đó Chung Hội quyết định cùng Khương Duy ở Thành Đô thực hiện kế hoạch tiêu diệt Tư Mã Chiêu mưu đồ thống nhất thiên hạ, không may sự việc bị bại lộ các tướng Ngụy nổi giận đem quân xông vào thành giết chết cả hai. Năm 265, Tư Mã Chiêu qua đời, con trai là Tư Mã Viêm lên thay, không lâu sau ông ép vua Ngụy Tào Hoán thoái vị và lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Tấn. Mùa đông năm 279, Tư Mã Viêm tổng động viên quân đội chinh phạt Đông Ngô. Đến năm 280, quân đội Đông Ngô chống trả yếu ớt rồi tan rã vua Ngô là Tôn Hạo đầu hàng quân Tấn chiến tranh kết thúc, thiên hạ được thống nhất, đóng lại 1 thế kỷ chia cắt đầy biến động. Từ khóa tìm kiếm tam quốc diễn nghĩa tập 2, tam quốc diễn nghĩa truyện, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa tập 5, tam quốc diễn nghĩa nhân vật, tam quốc diễn nghĩa 2010 vietsub, tam quốc diễn nghĩa tập 3, tam quốc diễn nghĩa phim truyền hình, 1994, tam quốc chí, tam quoc 2019, bài thơ tóm tắt tam quốc diễn nghĩa, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa trong 9 phút, tam quốc chí và tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa nhân vật, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa hồi 28, tóm tắt nhanh tam quốc diễn nghĩa, bản đồ tam quốc
Trang chủ » Bình Tam Quốc » Hai bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa Hai bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa Lượt view Người xem đánh giá Chủ đề bài viết Hai bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa Các bài thơ trong Tam quốc diễn nghĩa Giọng đọc Hoàng Hùng miêu tả cuộc đời binh lửa trong những trận chiến của các anh hùng thời bấy giờ.
bài thơ trong phim tam quốc diễn nghĩa