Tuy nhiên, sự hấp dẫn và sức mạnh lay động lòng người trong hồi kí của Nguyên Hồng chủ yếu vẫn là nhờ ở sự chân thành trong cảm xúc của người viết. Nguyên Hồng không chỉ kể lại, thuật lại những sự việc đã qua, mà còn sống lại, hóa thân vào những sự việc ấy. SpcYPv. Nguyên Hồng ắt hẳn là cái tên không còn mấy xa lạ đối với độc giả khi ông đã có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Trong bài viết này, WikiCeleb sẽ tổng hợp những thông tin chính xác nhất về nhà văn tài hoa này. Đừng bỏ lỡ nhé. Nguyên Hồng được mệnh danh là nhà văn của những người cùng khổ, ông chủ yếu tập trung sáng tác trong giai đoạn 1930 – 1945. Bên cạnh viết văn, ông còn chinh phục nhiều thể loại khác như thơ, tiểu thuyết, hồi ký và nổi bật nhất là những tác phẩm tiểu thuyết sử thi nhiều tập. Bên cạnh viết văn, Nguyên Hồng còn chinh phục nhiều thể loại khác như thơ, tiểu thuyết, hồi ký và nổi bật nhất là những tác phẩm tiểu thuyết sử thi nhiều tập. Tiểu sử nhà văn Nguyên Hồng Tên thật Nguyễn Nguyên Hồng Mệnh danh Nhà văn của phụ nữ và trẻ em Quê quán Hàng Cau, Nam Định. Ngày tháng năm sinh 5/11/1918 Ngày tháng năm mất 02/05/1982 63 tuổi Giai đoạn sáng tác 1963 – 1982 Nhà văn Nguyên Hồng tên thật là gì? Nguyên Hồng mang họ Nguyễn, tên đầy đủ là Nguyễn Nguyên Hồng. Cái tên này đã từng khiến nhiều người nhầm lẫn ông là nữ tác giả. Nhà văn Nguyên Hồng được mệnh danh là gì? Nhà văn Nguyên Hồng được đánh giá là nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Bởi lẽ trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông chủ yếu tập trung vào hai đối tượng này. Nguyên Hồng sinh năm mấy, mất năm mấy? Nhà văn sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 và mất ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Bắc Giang, hưởng thọ 63 tuổi. Nguyên Hồng ở đâu? Ông sinh ra tại phố Hàng Cau, nay thuộc phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Song, năm 16 tuổi, nhà văn phải bỏ học và theo mẹ bôn ba ở chốn Hải Phòng. Sau đó, ông trở lại Hà Nội công tác và đến những ngày cuối đời, người nghệ sĩ của chúng ta phải dứt áo khỏi chốn thủ đô, thực hiện cuộc xê dịch’ cuối cùng về Bắc Giang. Nguyên Hồng là người như thế nào? Trải qua tuổi thơ không mấy êm đềm và hạnh phúc, những gì còn đọng lại trong tác giả là một trái tim ấm nóng, luôn thổn thức và trăn trở trước những số phận cùng khổ. Nhà văn Nguyên Hồng được đánh giá là có tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tình người mãnh liệt với niềm cảm thông đến những mảnh đời bất hạnh. Về các mối quan hệ trong cuộc sống, ông là người rất coi trọng bạn bè và đối xử tử tế với những người xung quanh. Cụ thể, khi Hồng cùng gia đình chuyển từ Hà Nội về Bắc Giang sinh sống 1959, các bạn văn nghệ sĩ như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Kim Lân,… vẫn hay lên chơi và đánh điện hẹn nhau. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng Là một trong những nhà văn tài hoa và thành công trong văn đàn Việt Nam, ắt hẳn nhiều người sẽ không khỏi tò mò về sự nghiệp của Nguyên Hồng. Hãy cùng tìm hiểu ngay sau đây nhé. Nguyên Hồng được coi là nhà văn của ai? Vì sao? Như đã đề cập, ông được mệnh danh là nhà văn của phụ nữ và trẻ em. Căn nguyên của điều này cũng xuất phát từ quá khứ đau thương và ngập tràn nỗi buồn của cậu bé Hồng. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình không được hạnh phúc như những người khác, Hồng phải chịu nhiều cay đắng, tủi nhục, cơ cực khi phải sống nhờ nhà nội cùng cô ruột. Chính bởi sự thiếu thốn về tình thương, ngòi bút ông đã hướng tới những mảnh đời bất hạnh có hoàn cảnh giống mình. Phong cách riêng của nhà văn Nguyên Hồng là gì? Nét riêng tạo nên một Nguyên Hồng tràn đầy tình thương đó là văn ông lúc nào cũng minh bạch, giản dị đôi khi có chút rung động, thấm thía cảm động. Những cảnh tả cũng thật sinh động và chân thật một cách vừa phải. Chủ đề sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng là gì? Chủ đề chính trong mỗi tác phẩm của ông đó chính là nỗi cơ cực của phụ nữ và trẻ em. Bi thương trong quá khứ được ông gửi gắm qua từng con chữ, tạo nên nét văn chương chạm đến trái tim của muôn ngàn độc giả. Tác phẩm của nhà văn Nguyên Hồng hay nhất mọi thời đại Bắt đầu viết văn từ năm 1936, nhà văn Nguyên Hồng những người cùng khổ đã bắt đầu sáng tác và để lại cho văn đàn Việt Nam một khối lượng tác phẩm khổng lồ với đa dạng các thể loại như tiểu thuyết, thơ, hồi ký, truyện ngắn,… Các tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến là Bỉ vỏ tiểu thuyết Bảy Hựu truyện ngắn Những ngày thơ ấu hồi ký Qua những màn tối truyện Khi đứa con ra đời tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế tập II trong bộ tiểu thuyết Khởi nghĩa Yên Thế Trong đó, tác phẩm Những ngày thơ ấu Nguyên Hồng đã gắn liền với tên tuổi của ông và để lại nhiều dấu ấn sâu sắc cho quý độc giả. Cuộc đời của nhà văn Nguyên Hồng Bên cạnh những thắc mắc có liên quan đến sự nghiệp sáng tác, những vấn đề có liên quan đến cuộc đời của ông cũng gây nên không ít tò mò cho bao thế hệ độc giả. Quá khứ bi thương của Nguyên Hồng Nhà văn đã từng phải trải qua những ngày ấu thơ vô cùng bi thương. Cha thất nghiệp, sa sút nghiện ngập, mắc bệnh lao và phải sống nghèo túng trong tâm trạng kẻ bất đắc chí. Chính tác giả của tiểu thuyết Bỉ Vỏ cũng phải đau khổ thừa nhận rằng “thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau và bản thân chính là kết quả của cuộc hôn nhân gượng gạo ấy”. Đáng thương hơn, năm vừa lên 12 tuổi, nhà văn lại rơi vào cảnh mồ côi cha và mẹ thì lén lút đi bước nữa. Ông phải sống nương nhờ vào nhà nội cùng với người cô ruột luôn khinh miệt, khó tính. Tuổi thơ cậu vì thế mà chịu nhiều đắng cay, tủi nhục, không có sự yêu thương của người nhà. Mẹ của Nguyên Hồng là ai? Hồng có mẹ là một người ngoan đạo, hiền hậu, tần tảo, giàu đức hi sinh, chăm lo chu toàn cho gia đình. Song, người phụ nữ đức hạnh ấy lại không có được hạnh phúc và một mái ấm gia đình trọn vẹn. Năm chồng mất, cô lén lút đi bước nữa và bị gia đình chồng ruồng bỏ, hắt hủi, không có quyền tự do nuôi dưỡng và chăm sóc bé Hồng. Cũng chính vì thế mà nhà văn càng thêm yêu mẹ, thấu hiểu và trân quý những giây phút quý báu hiếm hoi bên người mẹ thân yêu. Vợ/ con của Nguyên Hồng là ai? Những thông tin về vợ và con của Nguyên Hồng đến nay vẫn còn là dấu chấm hỏi lớn. WikiCeleb sẽ tiếp tục tìm hiểu và thông tin đến quý bạn đọc trong những bài viết tiếp theo. Hy vọng qua bài viết này, quý bạn đọc sẽ phần nào có cái nhìn rõ nét và khái quát hơn về cuộc đời nhà văn Nguyên Hồng. Đừng quên theo dõi WikiCeleb không bỏ lỡ bất kỳ thông tin hữu ích nào nhé. Continue Reading Trong dòng văn học hiện thực phê phán giai đoạn từ 1930 tới 1945 nói riêng và văn học Việt Nam thế kỉ XX nói chung, Nguyên Hồng đứng ở một vị trí quan trọng và là một trong những nhà văn xuất sắc thời kì đó. Vài nét tiểu sử về tác giả Nguyên Hồng Ông sinh vào tháng 11 năm 1918 tại Vụ Bản, Nam Định, Nguyên Hồng được cuộc đời đón chào trong một gia đình có người cha làm cai đề lao nhưng nhanh chóng thất nghiệp. Sống trong hoàn cảnh nghèo túng, người cha nghiện ngập bệnh tật lại không thương yêu mẹ dù bà là người tần tảo, hiền hậu và giàu đức hy sinh nên Nguyên Hồng đã sớm thấu hiểu nỗi đau khổ của mẹ mình. “Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì thương yêu nhau.” – Trích Những ngày thơ ấu Ngay từ khi còn rất nhỏ, ở cái tuổi mà những đứa trẻ con khác đang vô tư tận hưởng tình yêu thương chiều chuộng của cha mẹ thì Nguyên Hồng đã sớm tự nhận thức được mình được sinh ra trong một cuộc hôn nhân gượng gạo, không tình yêu. Bằng tất cả những gì non dại và vô tư nhất, Nguyên Hồng đã khắc sâu vào kí ức hình ảnh của những năm tháng tuổi thơ mang một sắc màu xám xịt với một gia đình không có sự vui vẻ hòa thuận của người lớn mà chỉ toàn tủi nhục, cay đắng. Ảnh chân dung tác giả Nguyên Hồng Mới mười hai tuổi, ông đã mồ côi cha, mẹ lén lút đi thêm bước nữa và bị gia đình nhà chồng ruồng bỏ, hắt hủi, không được tự do gần gũi, chăm sóc con, Nguyên Hồng phải sống nhờ bà nội cùng cô ruột và chịu sự rẻ rúng, khinh miệt của bà. Ông lớn lên bằng những lời cay nghiệt, cuộc sống cực khổ vì đói ăn, thiếu mặc, thiếu cả tình thương gia đình. Nguyên Hồng đã từng phải đi đánh đáo để có tiền trang trải cuộc sống, tiếp xúc với đủ mọi hạng trẻ hư hỏng của các tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội ở khắp nơi như vườn hoa, bến tàu, cổng chợ. Học hết bậc tiểu học, Nguyên Hồng đã phải nghỉ giữa chừng để theo mẹ đi kiếm sống, trải qua nhiều vất vả trong hành trình kiếm việc làm nhưng thất bại, ông dừng chân nơi xóm Cấm, Hải Phòng và trở thành giáo viên, ngày ngày dạy học cho con em của người dân lao động nơi đây. Bằng sự nhạy cảm của mình, ngay từ nhỏ Nguyên Hồng đã cảm nhận và thấu hiểu được sâu sắc nỗi thống khổ của những người lao động nơi phố nghèo và đồng thời được tiếp xúc với tri thức tiến bộ của mặt trận dân chủ nên ông dễ dàng nhìn ra được những ngóc ngách tăm tối của cuộc sống, sự bức bối chèn ép của xã hội đương thời. Tuyển tập Nguyên Hồng Cũng chính ở mảnh đất Hải Phòng này, Nguyên Hồng đã gặp được Thế Lữ, một nhân vật đình đám mở đầu cho phong trào Thơ mới rồi bắt đầu hình thành một khát vọng được theo đuổi sự nghiệp văn chương của chàng trai trẻ. “Trông bộ dạng Nguyễn Hồng, không ai nghĩ là một nhà văn. Mặt đen sạm, để râu dài, áo cánh màu xanh chàm, bốn túi, mũ lá, dép lốp xỏ cả hai quai hậu, đi xe đạp thiếu nhi Liên Xô, mất cả chắn xích lẫn chẵn bùn, đèo đằng sau một bị cói vừa đựng tài liệu, vừa đựng một chai rượu cuốc lủi, kèm theo mấy thanh giang chẻ lạt.” – Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh viết về Nguyên Hồng Và cũng từ đó khu ổ chuột nơi xóm đất Hải Phòng đã xuất hiện một nhà văn với những trang viết đầu tiên mang màu sắc giản dị nhưng sâu sắc, thấm thía và rung động lòng người. Hành trình theo đuổi nghề viết một cách miệt mài Từ nhỏ, những quyển sách đã có sự thu hút đặc biệt đối với Nguyên Hồng, ông thường dành dụm tiền để đọc và dường như đọc hết những cuốn mình thích ở cửa hàng cho thuê sách tại Nam Định. Tác phẩm Bỉ vỏ, một sáng tác làm nên tên tuổi của Nguyên Hồng Nguyên Hồng thích tìm hiểu về lịch sử Trung Hoa, trong đó những nhân vật có khí phách ngang tàng, trung dũng, những hảo hán chiếm cảm tình của ông nhiều nhất. Mở đầu sự nghiệp viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn Linh Hồn đăng trên Tiểu thuyết thứ 7 đã dần tạo nên tên tuổi của nhà văn Nguyên Hồng. Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết Bỉ Vỏ. Đây không chỉ là bức tranh xã hội sinh động về thân phận những con người nhỏ bé dưới đáy như Tám Bính, Năm Sài Gòn mà còn là một câu chuyện gây tiếng vang lớn thật sự đưa Nguyên Hồng đi vào lòng độc giả nói riêng và toàn bộ cộng đồng tri thức nói chung. Bỉ vỏ dần được xuất hiện trên các mặt báo như một hiện tượng mới lúc bấy giờ và nhanh chóng nhận được giải thưởng từ Tự lực văn đoàn 1937. Cũng từ tác phẩm này, tác giả đã có những lời nhận xét và khẳng định đầu tiên từ nhà văn Thạch Lam “Tác giả tả một cách rõ ràng tuy nhanh chóng và có khi hơi vội vã. Văn lúc nào cũng minh bạch, giản dị, một đôi khi thấm thía rung động, có nhiều đoạn đẹp đẽ và sâu sắc. Những cảnh tả chân thực có vẻ sống sượng một cách vừa phải…” Là tiểu thuyết đầu tay, Bỉ vỏ ít nhiều vẫn tồn tại một cái nhìn lệch lạc và vấp phải những lỗi vụng về nhưng đó là lỗi sai của những người mới chập chững bước vào nghiệp viết, dần dần sẽ biến mất theo thời gian bằng những kinh nghiệm sau nhiều lần từng trải. Bìa sách Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng Sau tác phẩm này, uy tín và vị trí cũng như danh tiếng của Nguyên Hồng dần được xác lập trong văn đàn Việt Nam và ông đã thật sự trở thành nhà văn. Trong sự nghiệp theo đuổi viết lách, Nguyên Hồng là một trong số ít những nhà văn ngay từ khi cầm bút đã xác định được con đường của mình là suốt đời đi theo những con người cùng khổ. Chủ nghĩa nhân đạo thống thiết được thể hiện rõ nét trong cả thơ và văn của ông, với một cảm hứng nhiệt tình, sôi nổi và lao động không biết mệt mỏi khiến Nguyễn Tuân phải nói rằng “Nguyên Hồng là kẻ đam mê viết – Một kẻ bị ám ảnh bởi công việc ngoài viết ra không biết gì đến ăn mặc, ăn mặc xuềnh xoàng tới mức người ta tưởng là lập dị.” Sau này, nhà văn tiếp tục viết về cuộc đời của mình qua nhiều trang hồi ký khác như Bước đường viết văn của tôi, Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Một tuổi thơ văn. Cách đây không lâu, những trang nhật ký của nhà văn cũng lần đầu tiên được gia đình công bố. Những trang nhật ký của ông được viết từ 1941 – 1982 không chỉ cho bạn đọc được biết về cuộc sống của nhà văn mà còn như được thấy cả một giai đoạn lịch sử, đặc biệt là về đời sống văn nghệ của đất nước trong suốt hơn nửa đầu thế kỷ XX. Nhật ký Nguyên Hồng ngay khi vừa ra mắt đã nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả. Các tác phẩm để đời và phong cách văn chương đặc sắc Sinh ra ở Nam Định nhưng lớn lên và sống chủ yếu ở Hải Phòng nên có thể nói từng ngóc ngách nơi thành phố này Nguyên Hồng đều đã thuộc nằm lòng, ông khắc ghi trong trí nhớ từng gương mặt, từng số phận. Bìa sách truyện ngắn Nguyên Hồng đã được xuất bản Có lẽ cũng chính vì vậy mà hàng loạt tác phẩm ra đời đều thấm đẫm bóng hình của cuộc sống nơi đây và gắn liền với từng nhịp sống trên mảnh đất này. Rất nhiều truyện ngắn được xuất bản và bộ tiểu thuyết Cửa biển sáng tác từ năm 1961 tới 1976 gồm bốn tập Sóng gầm, Cơn bão đã đến, Thời kỳ đen tối và Khi đứa con ra đời dài đến hai chục ngàn trang in, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống lao động, đấu tranh ở miền đất đầy sóng và gió này. Bộ tiểu thuyết này không chỉ là tác phẩm đồ sộ, kì công nhất cuộc đời của Nguyên Hồng mà còn là một trong những thiên tiểu thuyết dài nhất trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam. Với bản tính vốn nhẫn nại và kiên trì, Nguyên Hồng từng bước chinh phục hành trình viết lách bằng bút, bỏ bao nhiêu thời gian và tâm huyết để hoàn thành được Cửa biển, có thể nói đây là một tác phẩm đáng nể của ông. “Nghề văn là nghề nhọc nhằn, nghiệt ngã sòng phẳng lắm, nó không kể là già hay trẻ, viết lâu năm rồi hay mới viết. Nó cũng không có sự phân biệt “chiếu dưới”, “chiếu trên” mà nó đòi hỏi người viết phải lao động cật lực. Những con chữ anh viết phải được chắt ra từ cảm xúc thực, từ tim, óc, máu thịt anh chứ không thể “giả khượt”. Văn của anh nó là con anh, không thể con của anh lại giống con người khác, như thế là hủ hóa đấy. Văn chương nó không chấp nhận sự hủ hóa, sự giống nhau đâu.” Bất cứ ai đọc văn của Nguyên Hồng cũng có thể nhận thấy sự chân thực hiện lên rõ ràng và gần gũi hết sức, từng nhịp văn cứ thế thấm vào lòng người. Ông là người thẳng thắn và tôn thờ sự thành thật trong văn chương, vậy nên tác phẩm của ông toát lên một màu sắc đời thường bình dị. Nguyên Hồng nổi tiếng là người viết được ở nhiều thể loại, truyện ngắn Linh hồn được ông viết năm mười bảy tuổi đã được cô con gái của mình nói thế này “Tác phẩm đầu tay của cha tôi đã ra đời như thế đấy!… Một chàng trai mười bảy tuổi, nghèo đói đến lằn ranh của sự sống và cái chết, đã viết như ngày mai sẽ chết, để dâng tặng cho cuộc đời, cho tất cả những kiếp người đói khổ và cùng cực “những rung động cực điểm” của trái tim mình.” Dồn cả nhiệt huyết và say mê của đời người, Nguyên Hồng sau này cho ra đời các truyện ngắn và truyện vừa trong sự đón nhận hân hoan của độc giả như Bảy Hựu, Hai dòng sữa, Miếng bánh, Giọt máu, Đêm giải phóng, Giữ thóc. Nhà văn Nguyên Hồng cùng nhiều tác phẩm đặc sắc Giai đoạn 1936 tới 1939, ông tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ ở Hải Phòng. Cũng trong khoảng thời gian này, Nguyên Hồng viết Những ngày thơ ấu, tập hồi ký viết về tuổi thơ cay đắng khắc nghiệt của chính mình và được đăng trên báo năm 1938, xuất bản thành sách vào năm 1940. Tháng 9 năm 1939, Nguyên Hồng bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê Hà Giang không lâu sau đó. Bốn năm sau, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng. Nguyên Hồng là một trong những hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1953. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là Núi rừng Yên Thế được viết năm 1980, cuốn này đang viết dở thì sức khỏe ông yếu đi và qua đời trước khi nó hoàn thành tại Tân Yên Bắc Giang. Nguyên Hồng và những chuyện chưa kể Nhà văn Nguyên Hồng là người có thói quen ghi nhật ký, trong những cuốn sổ tay của ông để lại mà gia đình có được, những trang nhật ký được bắt đầu từ năm 1941 và kéo dài đến cuối năm 1981. Qua những trang nhật ký của nhà văn, ta thấy hiển hiện cả một thời đại sống động và chân thực, trong đó nền văn học nước nhà trong suốt nửa đầu thế kỷ XX là rõ ràng hơn cả. Nguyên Hồng dẫn dắt người đọc bước qua phần nào cuộc đời của những nhà văn thế hệ ấy, biết được họ đã từng sống và viết như thế nào. “Nhật ký như là một phần cuộc sống của cha tôi. Ông viết hầu như là hàng ngày. Hay đúng hơn là hầu như mỗi sự kiện trong đời đều được ông ghi lại. Về gia đình, về các con, về người vợ thông minh nhưng gầy yếu, về người mẹ hiền từ, về bạn bè văn chương, về công việc viết lách cũng như công tác đoàn thể, về những sự kiện lớn trong nước và quốc tế, về những nhân vật mà ông bỏ nhiều công sức tìm hiểu cũng như những con người mà ông gặp hàng ngày, về những ước mơ hay dự định.” Năm 24 tuổi, nhà văn thành hôn với bà Vũ Thị Mùi, một người phụ nữ thông minh và lãng mạn. Bà biết tiếng Pháp, thích ngâm thơ nên dễ tìm thấy sự đồng điệu ở Nguyên Hồng, hai ông bà thường cùng nhau đọc thơ vào những lúc nhàn rỗi. “Họ nên duyên từ một lần, bố thuê người ta đan cho một chiếc áo len. Tuy nhiên, người này bận nên giới thiệu cho mẹ tôi đan. Mẹ tôi từ trước đã rất ngưỡng mộ tác giả của tiểu thuyết Bỉ vỏ nên nhận lời ngay.” Khác với các văn nghệ sĩ dành phần nhiều thời gian sáng tác, việc cơm áo gạo tiền để vợ lo toan thì Nguyên Hồng lại đỡ đần vợ rất nhiều trong cuộc sống. ”Mẹ tôi sức khỏe yếu và bận chăm nom bảy người con, công việc nhà như đi chợ, giặt quần áo, cơm nước… bố tôi thường không nề hà mà hay đỡ đần mẹ. Tôi nhớ có những ngày mẹ mệt, bố tôi rời trang bản thảo, liền bê ngay chậu quần áo lớn xuống suối giặt. Biết mẹ thích uống chè, nhà được ai biếu lạng nào, ông đều để phần và nhường cho bà dùng.” Với đam mê đọc sách từ nhỏ nên dù gia đình luôn túng thiếu nhưng trong nhà ông vẫn luôn có hai tủ sách, trong đó chủ yếu gồm sách kinh điển được dịch bằng tiếng Việt dành cho các con và sách tiếng Pháp cho ông. “Mỗi lần xuống Hà Nội giao bản thảo hay lấy tiền nhuận sách, ông đều mua sách về cho các con đọc.” – Lời của chị Nhã Nam, con gái Nguyên Hồng kể lại Các con ông vẫn nhớ như in hình ảnh người cha khắc khổ đạp xe từ Cầu Đen, Bắc Giang xuống Hà Nội, phía sau là chiếc cặp to đựng bản thảo và ít đồ ăn đạm bạc nhưng khi về trong hành lý của ông ngoài các tài liệu và các nhu yếu phẩm của gia đình bao giờ cũng có vài cuốn sách cho các con. Nguyên Hồng là một người cha vô cùng nghiêm khắc với con cái Đối với Nguyên Hồng, mỗi cuốn sách đều đáng quí, đáng trân trọng, ông nâng niu, gìn giữ vô cùng và yêu cầu các con khi cầm sách đọc cũng phải cẩn thận không được bẻ sách, đọc xong phải xếp ngay ngắn để khi cần có thể thấy ngay. Nguyên Hồng là người rất coi trọng bạn bè, khi ông cùng gia đình chuyển từ Hà Nội về Bắc Giang sinh sống năm 1959, các bạn văn nghệ sĩ hay lên chơi. Các nhà văn Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng thường viết thư hẹn gặp nhau. Với nhà văn Nguyễn Tuân, dù tính cách rất trái ngược như Nguyễn Tuân đã nói với Nguyên Hồng từ khi hai người mới quen nhau thời trẻ ”Tôi là một người thích phá đình, phá chùa, mà anh thì đúng là một người ưa chuyện tô tượng đúc chuông…” Ấy vậy nhưng họ lại rất yêu quí và nể trọng nhau. Nguyên Hồng về Hà Nội bao giờ cũng phải gặp Nguyễn Tuân, đôi khi chỉ là để uống với nhau cốc bia, nói vài câu chuyện, tin tức. Ngày Nguyên Hồng mất, nhà văn Nguyễn Tuân rất đau lòng, Nguyễn Tuân lên Bắc Giang khi đám tang đã xong được một ngày. Trước nấm mồ người bạn, ông đã đau xót tưới lên đó những chén rượu quê. Nhiều tác phẩm của Nguyên Hồng đã được in ấn và xuất bản Ông đã lao động nghệ thuật say mê, hết mình và bền bỉ như một người thợ cho đến giây phút cuối của cuộc đời. “Trước khi ngồi vào bàn viết văn, ông chuẩn bị rất cẩn thận trải chiếu ra nền nhà, cái bàn viết bằng gỗ nhỏ được sắp xếp gọn với giấy viết, bút, nghiên mực… Tất cả chúng tôi đều hiểu, khi ông đã ngồi vào bàn viết là không được gây tiếng động, không được làm bất cứ việc gì phiền đến ông.” Năm 1982, sau chuyến công tác tại Quảng Ninh, Nguyên Hồng trở về nhà ở Bắc Giang. Mấy hôm trời mưa, tường bếp bị mưa xói lở nên ông xuống suối lấy đất trộn với rơm để trát lại bếp. Đi công tác về mệt và làm việc quá độ khiến ông trở bệnh, được vợ dìu vào nhà, ông nằm mê man và không tỉnh lại. Con trai ông sau này có kể lại, lúc Nguyên Hồng mất các con không ai ở cạnh, ông đi rất nhanh. Bà Mùi chỉ nghe ông mấp máy môi mấy từ bằng hơi thở rất yếu “Tiếc quá”, “Hội nhà văn, “Bác sĩ”. Tác phẩm Những ngày thơ ấu đã được tái bản nhiều lần Ông muốn vợ gọi cho bác sĩ, gọi cho Hội nhà văn báo tin và điều ông nuối tiếc là gì? Có lẽ là tác phẩm mà ông chưa hoàn thành? Ông đang viết về người anh hùng Hoàng Hoa Thám, bộ tiểu thuyết được ông dành rất nhiều tâm huyết và chuẩn bị tư liệu rất kỹ càng trong suốt mấy chục năm. Tập 1 đã xuất bản năm 1981, tập 2 đang còn dang dở trong sự tiếc nuối vô cùng của ông. Đó là một ngày đầu hè năm 1982, sự nghiệp của nhà văn ấy mãi mãi dừng lại ở trang 183 tập 2, trong bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Nguyên Hồng sẽ mãi sống trong lòng nhiều thế hệ độc giả bằng Bỉ vỏ đầy ám ảnh, Những ngày thơ ấu cùng nhiều cảm xúc dâng trào và rất nhiều tác phẩm khác mang một chất rất riêng, rất lạ lùng không lẫn vào đâu được. Thùy Lam [HR][/HR] Đây là quyển hồi ký về những ngày thơ ấu đầy bi ai và tủi nhục của nhà văn Nguyên hồng. Các bạn đcọ xong rồi cho cảm nhận nhé !! Các file đính kèm Thật ra cuốn đỉnh cao nhất Nguyên Hồng là cuốn Cửa biển mấy ngàn trang đồ sộ vô cùng. Tiếc chưa ai đưa lên, mua sách còn không thấy. Chỉ có trong Nguyên Hồng toàn tập Phan Cự Đệ trong thư viện quốc gia còn File epub đính kèm sửa chút chính tả từ file prc bên trên. Bản PDF scan, NXB Văn hóa thông tin 2004, in chung Bỉ vỏ và Những ngày thơ ấu. ​Link PDF scan 14,7 Mb; 324 trang Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Các file đính kèm hi còn tiều thuyêt "Sóng Gầm" của Nguyên Hồng Chia sẻ trang này Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ ba, 3/8/2021, 1929 GMT+7 Nguyên Hồng 1918-1982 là nhà văn có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam, được đánh giá là một trong số đại diện xuất sắc của nền văn học hiện thực tiến bộ trước Cách mạng tháng tám1945. Ông viết nhiều thể loại, từ tiểu thuyết, truyện ngắn, hồi ký, bút ký đến thơ, ngày thơ ấu là tập hồi ký viết về tuổi thơ khắc nghiệt của nhà văn Nguyên Hồng. Hồi ký được đăng trên báo năm 1938, xuất bản thành sách vào năm 1940. Tác phẩm gồm 9 chương Tiếng kèn, Chúa thương xót tôi, Trụy lạc, Trong lòng mẹ, Đêm Noel, Trong đêm đông, Đồng xu cái, Sa ngã, Một bước ngắn. Nhà văn Nguyên Hồng. Ảnh Báo Bắc Giang. Tóm tắt hồi ký Cha mẹ cậu bé Hồng lấy nhau do sự sắp đặt của hai gia đình nên không có hạnh phúc. Người chồng mau chóng trở thành kẻ nghiện rượu, nghiện khát khao hạnh phúc, người vợ vẫn giữ đức hạnh cao đẹp, cắn răng chịu đựng bao cay đắng, không nói một lời oán trách. Song trong lòng chị lại có người đàn ông khác nên khi chồng chết, chị phải bỏ đi tha hương cầu thực vào Thanh Hóa để kiếm tiền trả nợ, khi đó đã mang thai đứa con thứ là đứa bé thông minh, lanh lợi, tâm hồn trong sáng và nhạy cảm, nhưng lớn lên trong một gia đình bất hạnh, bị nhiều người sỉ nhục nên cậu đã kêu lên nỗi thèm khát mẹ và cầu cứu mẹ giúp ký có những đoạn tự sự gây xúc động, như "Giá ai cho tôi một xu nhỉ? Chỉ một xu thôi! Để tôi mua xôi hay bánh khúc. Vừa đi vừa cắn, ngon xiết bao! Không! Không ai cho tôi cả, vì người ta có phải mẹ tôi đâu!Mẹ ơi! Con khổ quá mẹ ơi! Sao mẹ đi lâu thế? Mãi không về! Người ta đánh con vì con dám cướp lại đồ chơi mà con người ta giằng lấy. Người ta lại còn chửi con, chửi cả mẹ nữa. Mẹ xa con, mẹ có biết không?".Câu 2 Những câu văn dưới đây nằm trong chương nào của hồi ký "Những ngày thơ ấu"?Cô tôi chưa dứt câu, cổ họng tôi đã nghẹn ứ khóc không ra tiếng. Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới Trong lòng mẹb. Đêm Noelc. Một bước ngắn Bài nghiên cứu văn học đầu tiên của tôi là bài viết về Nguyễn Hồng. Ấy là một chương trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, viết chung giữa Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Vinh, xuất bản năm 1963. Thỉnh thoảng tôi có gặp Nguyễn Hồng, thường ở trụ sở Hội nhà văn 65 – Nguyễn Du, đôi khi ở báo Văn Nghệ 17 Trần Quốc Toản. Nguyễn Hồng cũng đến tôi mấy lần, khi ở nhà K2, khi ở nhà B2 khu tập thể cán bộ Đại học Sư phạm Hà Nội. Có lần ông ở cả ngày, ăn với gia đình tôi hai bữa cơm. Trông bộ dạng Nguyễn Hồng, không ai nghĩ là một nhà văn. Mặt đen sạm, để râu dài. áo cánh màu xanh chàm, bốn túi, mũ lá, dép lốp xỏ cả hai quai hậu, đi xe đạp thiếu nhi Liên Xô, mất cả chắn xích lẫn chẵn bùn, đèo đằng sau một bị cói vừa đựng tài liệu, vừa đựng một chai rượu cuốc lủi, kèm theo mấy thanh giang chẻ lạt. Lần thứ nhất, ông đến tìm tôi khi tôi ở khu nhà lá thuộc dãy nhà K2, chung quanh toàn là cán bộ giảng dạy văn học mà không ai biết dó là nhà văn Nguyên Hồng. Họ cứ nghĩ là một ông phụ huynh học sinh ở quê ra xin xỏ gì đó cho con đang học vợ tôi. Ông dắt xe vào khu nhà tập thể, hỏi thăm đúng vào thằng con tôi đang đá bóng ở đầu dãy nhà. Nó không thèm dẫn ông về nhà, mà cứ đứng từ xa chỉ chỏ. Nhưng nghe chị Ngọc Trai nói về Nguyên Hồng mới thật thương. Ngọc Trai từng ở với Nguyên Hồng trong một lớp bồi dưỡng nhà văn tại Quảng Bá. ấy là lớp học của một số cây bút trẻ chuẩn bị đi B. Ngọc Trai phụ trách quản trị. Nguyên Hồng phụ trách chuyên môn. Học viên đi B được hưởng tiêu chuẩn ăn cao hơn. Ngọc Trai và Nguyên Hồng không đi B nên không được hưởng tiêu chuẩn ấy. Vì thế ăn chung một chế độ, Ngọc Trai và Nguyên Hồng phải góp thêm tiền. Nguyên Hồng quyết định ăn nửa suất cơm. Ngọc Trai khuyên thế nào cũng không nghe. Bữa ăn, học trò thương thày cứ chia cho Nguyên Hồng cả suất như mọi người. Nguyên Hồng không bằng lòng “Lại có đứa nào ăn gian đây! Tao có nửa suất mà sao lại như mọi người?” Ngọc Trai bàn hai người ăn chung, Nguyên Hồng không nghe. Nguyên Hồng rất đạo đức và gương mẫu. Sáng dạy ông tập thể dục. Cũng đeo gạch vào balô chạy, rồi tập đi. Ngọc Trai khuyên không nghe. Nguyên Hồng đi liên hệ công tác với Vụ Tổ chức Trung ương. Ngọc Trai đề nghị liên hệ ôtô. Nguyên Hồng cũng không nghe, cứ đi xe đạp, vì cho là gần, ngay Bách Thảo thôi mà. Còn người ta coi thường vì có vẻ lúi xùi thì không lo. Ông nói “Khinh trọng là do nhân cách của mình chứ! Nguyên Hồng đi xe đạp cùng Ngọc Trai. Buồn cười lắm. Xe không có chuông. ông vừa đi vừa hô bọn trẻ con trên đường các cháu cho bác đi nhờ nào, xe đạp đây!… cứ thế suốt dọc đường. Nguyễn Tuân rất bực với Nguyên Hồng “Này sao anh lại tự làm khổ mình như vậy, anh có đến nỗi nào!”. Nguyên Hồng nói “Anh khác, tôi khác, tôi làm sao giống như anh được! Người ta có số cả. Số tôi nó thế!” Có lẽ số Nguyên Hồng thế thật. Sống cũng khổ, chết cũng khổ. Khi Nguyên Hồng chết, nhà còn có năm bơ gạo, một con gà nhỏ. Trong túi còn đúng 20 đồng. Hàng xóm cho vay cỗ quan tài. Nguyên Ngọc báo anh em lên đưa ma, nói, Nguyên Hồng nghèo lắm đấy, không có gì thết đãi đâu. Chưa làm điếu văn vội, Nguyên Ngọc trước hết lo chạy lên tỉnh, lên huyện, lên đảng uỷ xã bàn với họ cho tiền, cho lợn, cho gạo để làm ma. Hôm đưa ma Nguyên Hồng, tôi không lên được. Ngô Thảo có tả quang cảnh đám ma thật là tội nghiệp xe tang từ trên đồi đi xuống dốc, phải hò nhau đẩy trở lại làm phanh. Phường kèn toàn là thương binh cụt tay cụt chân phải là thương binh mới được vào hội kèn, ăn công điểm của hợp tác xã. Nguyên Hồng có người con cả là Hồng Hà Nguyên Hồng sinh Hồng Hà khi gia đình ông ở bãi Phúc Xá, bờ sông Hồng dạy tiếng Anh ở Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, cũng ở gần khu nhà ở của cán bộ khoa Văn Đại học sư phạm chúng tôi. Một lần biết ông đang ở chỗ Hồng Hà, tôi đến thăm. Không thể tưởng tượng được nhà ở của một cán bộ giảng dạy đại học mà lại khốn khổ đến thế. Như một cái lều vịt, dựng trên một bãi rác, sau lưng là một dãy nhà xí, cái nào cũng mất cửa. Nguyên Hồng đang ngồi uống rượu. ông nhắm rượu với một đĩa rau củ cải luộc ngọn rau, lá rau chứ không phải củ cải. Vậy mà ông cũng nhắm nháp ra vẻ đắc ý lắm. Nguyễn Đình Thi còn nói với tôi, có lần còn bắt gặp ông nhắm rượu với cơm nguội. ấy là cái hồi ông phụ trách trại bồi dưỡng nhà văn trẻ ở Quảng Bá – người ta thường gọi đùa là ông Đốc Hồng. Ông dặn mọi người, sau 10 giờ tối, ông đóng cửa phòng, làm việc riêng, không tiếp khách. Hôm ấy, Nguyễn Đình Thi có việc gì đó khẩn cấp cần gặp ông. Anh đẩy cửa phòng Nguyên Hồng sau 10 giờ tối, thấy ông đang nhắm rượu với cơm nguội. Nguyễn Đình Thi cười “Đấy, nhà văn Việt Nam ăn chơi như thế đấy!” Trở lại chuyện tôi đến thăm Nguyên Hồng ở nhà Hồng Hà. Ông nói “Chỗ này giống hệt như nơi ngày xưa tôi viết Bỉ vỏ. Chỗ viết Bỉ vỏ như thế nào? – Đây, ông viết trong lời Tựa cuốn tiểu thuyết “Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một chuồng lợn ngập ngụa phân tro. Bỉ vỏ đã viết xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ con khóc…” Trò chuyện với Nguyên Hồng, tôi mới biết ông bị tù từ tuổi thiếu niên. Ông có một người chú dượng thường ức hiếp, hành hạ vợ, tức là một bà cô của ông. Ông tức quá, rút dao đâm ông này và bị đưa đi trại cải tạo trẻ con hư đâu như ở Bắc Giang. Lần thứ hai ông bị tù vì tham gia phong trào thanh niên dân chủ của Đảng cộng sản cuối thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương 1936 – 1939 ông bị bắt về tội tàng trữ tài liệu cộng sản, giam ở Căng Bắc Mê, Hà Giang. Không phải ngẫu nhiên mà ông hay viết về nhà tù Bà Vỷ, Khói ken nếp và xà lim, phóng sự Tù trẻ con, Tù đàn bà, Tiểu thuyết Bỉ vỏ, Cơn bão đã đến… Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, Nguyên Hồng rất hăng hái hoạt động. Ông cùng Như Phong tích cực viết cho các báo chí tiến bộ như Thế giới, Mới, Người mới. Rất phục những chiến sĩ cộng sản trong nhóm Tin tức, muốn sáng tác theo khuynh hướng tả thực xã hội chủ nghĩa. Sau khi viết Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu, ông có vị trí khá nổi nên có quan hệ với Mười Cúc, Nguyễn Thiện Chân. Lê Quang Hoà, Bùi Vũ Trụ… Ông say mê đọc Le Travail, Rasssemblement, Bạn dân, Thời thế. Đọc Gorki, La Resurrection, Voyage à Moscou của Henri Barbusse, sách của Hải Triều viết về ba nhà văn cách mạng. Đọc Ngục Kontum của Lê Văn Hiến, Một ngày ngàn thu của Tôn Quang Phiệt… Rất mê Tuyên ngôn của Đảng cộng sản b Liên Xô. Ngày ông đi nghe Trần Huy Liệu diễn thuyết ở Đấu Xảo. Phan Bôi có mở một lớp Mác xit, ông có dự cùng với Trần Quang Huy, Đào Duy Kỳ, Nguyễn Hữu Dụng, Thành Ngọc Quảng, Nguyễn Thường Khanh, Như Phong, Đào Văn Trường, Trần Đình Chi. Lớp mở ở Phạm Phú Thứ. ông nói, nghe giảng chán bỏ mẹ, đọc sách thú hơn. Ông nhớ có đọc một cuốn sách vẽ Gorki như con gà ủ các nhà văn trẻ… Lúc ấy ông tự coi mình đích thực là cộng sản rồi. Ông quyết chuyển đề tài viết về giai cấp vô sản. Ông viết về công nhân, về thợ mỏ, về phu đồn điển Một quả đấm, Đến cây số 13, Người đàn bà Tầu, Đẹp, Những giọt sữa…Ông đi vào mỏ Vàng Danh và viết Thanh niên trong bụi đen… Tinh thần lúc ấy hết sức lạc quan tin tưởng. Ông viết Nắng mới Đăng trên báo Người mới với tinh thần ấy. Năm 1939, thực dân bắt đầu khủng bố. Tháng 9 – 1939, ông bị bắt. Lý do tàng trữ tài liệu cộng sản. Đó là cuốn Tự chỉ trích của Nguyễn Văn Cừ. Lúc bị bắt, ông đọc câu thơ Tố Hữu và rất lấy làm tự hào Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin Giữ trinh bặch linh hồn trong bụi bẩn. Ở Căng Bắc Mê, Tô Hiệu mở lớp huấn luyện về lý luận. Dự lớp có Tô Quang Đẩu, Ngô Minh Loan, Hồ đen, Trần Các, Tô Dĩ, Phan Bôi, Xuân Thuỷ, Nguyên Hồng. Ông nói, chúng tôi hát rất hồn nhiên, rất say sưa, say lý tưởng, sống cứ như trong mơ… Trong tù có những hình ảnh rất đẹp. Ông nhớ hình ảnh chị Bùi Đình Đổng bụng chửa, ung dung vào xà lim với chồng, dắt theo đứa con lên ba. Đẹp nhất là hình ảnh Tô Hiệu, áo cổ lọ, mũ nồi, ngực dẹt, tiếng khàn khàn vì bị tra tấn, làm việc say mê chuẩn bị cho lớp huấn luyện. Ai dự lớp huấn luyện coi như không được tha. Trong tù, có tin Liên Xô ký hiệp ước với Đức. Lúc ấy, vấn đề đặt ra là Lý tưởng và lòng tin? Không có lòng tin thì làm sao chống lại được sức mạnh của đế quốc hết sức ghê gớm lúc bấy giờ. Nhưng nghe Tô Hiệu giảng bài, sức thuyết phục còn hơn cả sách vở. Cái feu, cái ánh sáng ở con người Tô Hiệu rất thuyết phục! Lớp học mỗi ngày giảng ba buổi. Giờ khác thì soạn bài, ghi trên giấy cuốn thuốc lá, thuốc lào, giấy gói bánh khảo. Tô Hiệu viết từ 9 giờ tối đến 2 giờ đêm… Sáng đi làm cỏ vê thì chuyển tài liệu cho các trại. Vợ chồng Bùi Đình Đổng và Tô Hiệu, sau này được Nguyên Hồng dùng làm nguyên mẫu cho mấy nhân vật cách mạng của ông trong bộ tiểu thuyết Cửa biển. Ở tù ra, Nguyên Hồng lấy vợ. Chả quen biết gì nhau đâu, chỉ nhờ mối lái mà lấy nhau. Đám cưới không có chú rể. Người ta đưa dâu về nhà chồng ở xóm Cấm, Hải Phòng, nhưng chú rể, tuy đã ra tù, vẫn phải chịu chế độ quản thúc ở Nam Định. *** Nguyên Hồng rất giầu tình cảm, rất dễ xúc động, hay khóc. Các con hay cười bố về chuyện này. Mẹ ông chết năm 1973, ông thương khóc như mưa như gió, dữ dội quá, làm cho vợ ông sợ quá, phát ốm. Lúc sống, mẹ con hay gắt nhau, thế mà lúc chết thì khóc như thế. Hôm tôi lên Nhã Nam ăn một trăm ngày Nguyên Hồng, bà Nguyên Hồng nói với tôi như vậy. Ông Hoài Thanh cho biết, Nguyên Hồng có lúc đang nói trên diễn đàn hội nghị, bỗng dừng lại “Các đồng chí cho tôi khóc một lúc đã”. Hoài Thanh có vẻ nghi ngờ sự chân thật của Nguyên Hồng, vì thấy có một cái gì không bình thường trong cách biểu hiện cảm xúc của ông. Thực ra chính vì ông có một trái tim khác thường – một trái tim lớn. Cho nên trong suốt cuộc kháng chién 9 năm, đi đâu ông cũng cõng balô tập bản thảo tiểu thuyết Sống mòn dày cộp của Nam Cao. Mùa hè ông có thể ngồi quạt cho các bạn bè ngồi viết văn. Trước cái chết oan ức và vô cùng thảm khốc của Lan Khai, ông gửi cho vợ Lan Khai những dòng chữ như viết bằng máu Sống lầm than, chết cũng lầm than Viết mọi rợ, chết vì mọi rợ. Một ngọn đèn xanh, hai dòng lệ đỏ… Kim Lân còn chứng kiến Nguyên Hồng vừa viết văn vừa khóc. Khóc nức nở. Vừa đấm lưng vừa khóc. Thương cả nhân vật do mình hư cấu ra. Trong Cửa biển, có nhân vật tên là Gái Đen, phu bến tầu Hải Phòng. Người rất tốt, gia đình có truyền thống yêu nước, nhưng lấy nhầm phải một thằng phản bội cách mạng, có mang với nó. Đau khổ quá, lúc trở dạ đẻ, cô quằn quại, vật vã, đẻ xong thì chết. Ngồi viết ở Đồi Cháy, Nhã nam, đến chỗ Gái Đen chết, ông vừa khóc vừa chạy xuống bếp, nói với cô con gái đang nấu cơm “Con ơi, Gái Đen chết rồi!”. Hôm ở trụ sở báo Văn nghệ, thuật lại chuyện này, ông cũng khóc. Nói chuyện với ông, tôi rất ngại. Vì ông khóc mà mình chẳng thấy xúc động gì cả, y như thằng không có tình cảm. Mà nhìn người đàn ông râu ria ngồi khóc, trông rất tội. Giầu lòng thương người nên Nguyên Hồng quan niệm chủ nghĩa hiện thực không tách rời tình cảm đối với nhân dân lao động. Cho nên ông không thoả mãn với chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Ông không thích Mạnh Phú Tư, Tô Hoài, cho là nhạt, không có tâm huyết, thiếu tình người. Ông thích Hồ DZếnh, đánh giá cao Am cu li xe của Thanh Tịnh là vì thế. Nguyên Hồng cho tả thực xã hội hồi ấy người ta không nói hiện thực mà nói tả thực phải gắn bó với người lao động nghèo khổ, yêu thương và có trách nhiệm với người cùng khổ. Vì thế, ông cho Nguyễn Công Hoan không phải là tả thực. Cũng vì thế mà trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, chịu ảnh hưởng của phong trào cộng sản, ông bắt ngay lấy học thuyết giai cấp. Ông tự thấy không phải không có tinh thần yêu nước và lòng tự hào dân tộc, nhưng say giai cấp hơn. Đây là chỗ khác với phần lớn các cây bút tiểu tư sản đương thời. Họ nhậy cảm với vấn đề dân tộc, còn chuyện giai cấp thì rất khó “vào”. Nguyên Hồng thì say giai cấp. Ông viết Người đàn bà Tầu 1939, ca ngợi tinh thần quốc tế của giai cấp vô sản. Người đàn bà Tầu, ông coi đấy là một bước rẽ của mình về tư tưởng và nghệ thuật. Nhưng cũng là bước rẽ vào nhà tù – ông nói với tôi như vậy. *** Lần thứ hai, Nguyên Hồng tìm đến tôi, khi gia đình tôi đã chuyển lên ở nhà B2, tầng năm. Lần này ông ở lại với gia đình tôi cả ngày Thông thường người uống rượu, thích thuốc lá, trà tầu. Nguyên Hồng đi đâu cũng xách theo chai rượu, nhưng không hút thuốc lá, uống trà tầu. Trời nóng ông chỉ xin một cốc nước lạnh. Hôm ấy đứa con gái tôi mới học lớp một. Nó đi học về, phàn nàn là cô giáo bắt làm một bài tập kể tên các loài chim có ích. Nguyên Hồng đã gợi ý giúp nó làm bài tập ấy. Tôi nhớ lần gặp ấy, Nguyên Hồng có nói một câu mới nghe có vẻ vô lý, nhưng nghiệm ra thấy rất đúng “Thày giáo Mạnh này, bọn văn xuôi chúng tôi rất dại, chỉ có bọn làm thơ là khôn”. Sự thật quả có thế. Mấy ông văn xuôi thường hay bị đánh Nguyễn Tuân Phở, Tình rừng, Tờ hoa…, Nguyên Hồng Con hổ ở Suối Cát, Nguyễn Huy Tưởng Một ngày chủ nhật, Tô Hoài Mười năm, Dế mèn phiêu lưu ký, Nguyễn Thành Long Cái gốc, Nguyễn Khải Đối mặt, rồi Phùng Quán, Trần Dần, Nguyên Ngọc, Nguyễn Dậu, Hà Minh Tuân… Còn bọn làm thơ, phần lớn là quan chức cao cấp, được Đảng tín nhiệm Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi. Thế hệ sau là Bằng Việt, Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa… Tất nhiên có ngoại lệ, nhưng không nhiều. Phần lớn đúng như Nguyên Hồng nói. Trong hoàn cảnh của chính thể ta, tôi cho Nguyên Hồng là người cứng cỏi hơn cả, bản lĩnh hơn cả. Hồi anh Nguyễn Đình Nghi đến thăm tôi, tôi có tặng anh cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, trong đó có bài Nguyễn Đình Thi như tôi biết. ở bài này, tôi có ý chê Nguyễn Đình Thi thiếu dũng khí. Nguyễn Đình Nghi đọc sách và phôn cho tôi, ý nói nên thông cảm với giới văn nghệ dưới chính thể này. Anh nói, anh là con ông Thế Lữ, nên được tiếp xúc nhiều với giới nhà văn. Anh biết, chẳng ai có dũng khí được đâu, kể cả Phan Khôi, Nguyễn Tuân. Đúng thế thật. Nguyễn Tuân vẫn được tiếng là ngang bướng, vậy mà tôi nghe nói, có lần ông vừa uống rượu vừa khóc “Tôi được như thế này là vì biết sợ”. Nguyên Hồng không sợ. Hồi ông phụ trách thư ký toà soạn tuần báo Văn, tờ báo bị quy là Nhân Văn ngóc đầu dậy, ông không chịu, không cho mình là sai. Ông từ chối kiểm thảo, từ chối đi thực tế cải tạo tư tưởng, trong khi hầu hết đều tự kiểm thảo và đi thực tế Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khải, Tô Hoài đi Tây Bắc, Điện Biên, Huy Cận đi vùng mỏ, Đào Vũ đi nông thôn… Nguyên Hồng không đi. Ông khinh tuốt, cho tất cả chúng nó đều hèn. “Tao đéo chơi với chúng mày nữa” – ông tuyên bố thế và bỏ ra ngoài biên chế, đưa cả gia đình lên Nhã Nam, trở lại Đồi Cháy, nơi ông sơ tán thời khángchiến chống Pháp. Ông đã phải trả giá rất đắt cho thái độ cứng cỏi này. Đang có nhà cửa, việc làm ở Hà Nội mà lại bỏ đi như thế, ở thời bao cấp, là một hành vi hết sức dũng cảm, thậm chí liều lĩnh. Lên Nhã Nam, một phiếu gạo của ông 13 cân rưỡi nuôi 9 người một vợ và 7 con bé lắt nhắt. Lại còn mẹ ông nữa lúc ấy còn sống. Đói theo nghĩa đen! Vợ đi chăn bò cho hợp tác xã, mùa đông phải gặm một con cá mắm khô cho đỡ rét. Các con thì mò cua bắt ốc. Ăn ngô ăn khoai thay cơm. Hôm cúng 100 ngày Nguyên Hồng Nguyên Hồng mất ngày một trăm ngày là tôi có lên dự cùng với Nguyễn Xuân Sanh và Vương Trí Nhàn. Này đây là Đồi Cháy, ấp Cầu Đen đây. Nơi từng hội tụ một số gia đình văn nghệ sĩ thời kháng chiến chống Pháp Ngô Tất Tố, Kim Lân, Nguyên Hồng, Tạ Thúc Bình, Trần Văn Cẩn. Ngày xưa không biết quang cảnh thế nào, còn giờ đây chỉ có căn nhà của Nguyên Hồng. Nhà lợp ngói, tường đất gọi là tường trình. Một cái bếp. Trên chái nhà thấy còn treo một cái bàn thấp, nhỏ, gỗ tạp, giống như một cái kỷ nhưng rất thô sơ. Nguyên Hồng thường đặt bàn lên giường ngồi viết, hoặc đem ra gốc cây khế góc sân, giải chiếu ngồi làm việc. Khoảng 9, 10 giờ sáng ngày – bà Hồng kể – Nguyên Hồng đang làm việc ở gốc khế, xoay ra vác đất đắp vào chân tường nhà bếp. Tường xi măng mà không có móng, sợ chuột đào đổ, nên phải đắp đất cho vững. Bà Hồng bảo thuê thợ, ông không nghe. Trời mưa lất phất. Ông thấy mệt, giải chiếu nằm nghỉ ở bờ tre. Bà Hồng dìu về nhà ngang, sau lên nhà trên. Ông tắt thở khoảng 2 giờ chiều. Trước khi chết chỉ đập đập tay xuống giường có vẻ bực bội, nói với vợ, gọi cho Hội nhà văn. Bà Hồng thở dài “Ông ấy cả đời chả bao giờ được sướng. Uống rượu chả có gì nhắm cũng khề khà. Trông dáng dấp như anh cu li xe ngồi nhắm rượu ở vỉa hè. Túng thiếu thế, nhưng có tiền tiền sách là cúng ngay cho xã để xây dựng trường học 300 đồng”. Tôi thấy trong nhà có một cái tủ ọp ẹp, không có khoá, mở ra thấy chất đầy bản thảo của Nguyên Hồng. Tôi tìm thấy một cuốn nhật ký. Đọc mấy trang, thấy hoàn cảnh gia đình Nguyên Hồng hồi ấy thật bi đát. Tôi có ghi được mấy đoạn Nhà tôi đi lĩnh ngô về thì bị hen. Tôi lại phải làm cơm… Sáng tôi đi chợ Nhã Nam mua dây khoai cho lợn ăn bữa cuối cùng. Khoai lang bán 11 đồng một gánh, tôi không dám mưa. Mua thêm chục mớ rau muống để về cấy. Tôi đến hàng chị Lương xem ra làm sao, nhưng không mua được gì cả. Tôi đã bắt đầu viết bản thảo ba “Đôi chim tan lạc và anh bộ đội”. Tôi sang huyện. Mua đôi dép cho Thư 5đ5 và bé Diệu cái bàn chải đánh răng. Xin mua được 3 thếp giấy và 2 cân dầu. Nhà tôi trả trâu. Cái Nhã cắt cỏ, cái Thế đi chăn lần cuối cùng “Trâu ơi! Tao giả mày, tao nhớ mày lắm!”. Nó tần ngần mãi khi đưa trạc cho cái Hạnh. Mẹ tôi đi xin cơm cho con mèo mướp. Vợ tôi nhá ngô cho các gà con. Tôi giằm ngô, những hột nở mềm nhất cho mèo ăn. Chủ nhật trống rỗng. Bầu Hội đồng nhân dân tỉnh. Nhã bắt được 40 con cua. Nhã nấu canh cua với rau khoai lang. Tôi nhắm rượu với mấy con cua con xào tỏi… Thư, Nhã làm đất trồng rau dền. Bãi rau muống đã hái được. Cái Diệu khoe “Nhà cái Quỳnh sắp nhịn đói, nhà ta nhịn đói đã từ lâu rồi!”. Hôm nhà tôi ốm, nó cũng khoe với các bạn Quỳnh, Các ”Bu tao sắp chết rồi!” Nhà tôi rên lên “Phải, tao sắp chết rồi đây” Tình cảnh Nguyên Hồng như thế mà không ai dám cứu. Hội nhà văn, Tỉnh uỷ Bắc Giang, Hội Văn nghệ Hải Phòng đều sợ, không dám hỏi han gì đến. Nhưng hoàn cảnh như thế mà Nguyên Hồng vẫn viết, hết Cửa biển 4 tập, mỗi tập 500 trang lại Núi rừng Yên Thế. Lao động như thế, ăn uống như thế, ông sống được đến ngoài 60 tuổi kể cũng giỏi!. Bản lĩnh Nguyên Hồng như thế nên Nguyễn Tuân rất phục. Khi Nguyên Hồng mất, người ta làm lễ viếng ở 51 Trần Hưng Đạo. Nguyễn Tuân phát biểu, vừa nói vừa khóc. Ông còn nói với chị Ngọc Trai “Người ta cứ bảo tôi bướng, chứ tôi bướng sao bằng Nguyên Hồng!” Chính trong lễ viếng Nguyên Hồng hôm ấy, chị Lê Minh, phụ trách mục Văn nghệ trên báo Nhân dân, đặt tôi viết một bài về Nguyên Hồng. Tôi viết một hơi bài Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, lấy chuyện mau nước mắt của ông làm lời kết “Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy liệu có bao giờ khô cạn được chăng?”. *** Nguyên Hồng, trong sinh hoạt, có nhiều cái hết sức nhếch nhác. Xem Cát bui chân ai của Tô Hoài thì đủ rõ. Nhưng có lẽ chưa bao giờ ông lâm vào tình trạng nhục nhã, ê chề như trường hợp kể sau đây. Tôi có một anh bạn thân tên là Trần Văn Lộc. Lâu ngày quá, giờ tôi không còn nhớ đã quen Lộc trong trường hợp nào và từ bao giờ. Hồi xưa anh học Sư phạm trung cấp ở Khu học xá Việt Nam tại Nam Ninh Trung Quốc. Sau lại về học tiếp ở Đại học Sư phạm Hà Nội. Có một hồi không hiểu sao anh lại tự sát nhưng cứu được. Tôi đến thăm anh ở bệnh viện, anh ôm lấy tôi khóc ồ ồ, rất tội. Trần Văn Lộc là em ruột Trần Văn Nhung. Hồi Nhật đảo chính Pháp ở Hà Nội Trần Văn Nhung theo Nhật đánh Pháp và bị tử thương. Thời gian học ở khu học xá Nam Ninh, Lộc bị bệnh sa ruột gọi là sa đì phải vào chữa ở bệnh viện Nam Ninh. Đúng lúc ấy, Nguyên Hồng cũng sang điều trị tại đấy, và cũng bị bệnh ấy. Bị bệnh này thì phải giải phẫu. Giải phẫu thì phải làm vệ sinh cẩn thận, trước hết phải cạo hết lông ở quanh dương vật rồi bôi thuốc sát trùng. Nguyên Hồng lên bàn mổ trước. Mấy cô y tá Trung Quốc trẻ trung, hồng hào, trắng trẻo, làm công việc này một cách rất tỉ mỉ, cẩn thận, nên kéo dài rất lâu. Nguyên Hồng hoảng quá. Phải làm sao át đi những ý nghĩ bậy bạ. Ông bèn nghĩ đến đất nước đang có chiến tranh, khói lửa mịt mù, nhân dân cực khổ. Nhưng không sao át được. Cái ấy dần dần cương lên. Nhưng cô y tá cứ tiếp tục công việc một cách tỉ mỉ kỹ lưỡng. Cuối cùng một việc “quốc sỉ” đã xẩy ra, nó vọt vào áo của cô y tá. Cô gái cứ coi như không có chuyện gì, thản nhiên lau chùi đi và tiếp tục công việc của mình. Giải phẫu xong, Nguyên Hồng về phòng, kể nỗi nhục nhã này với Trần Văn Lộc. Lộc sợ quá, vội buông màn, tự làm vệ sinh trước. Con người này quá giầu xúc cảm, lại giầu tưởng tượng. Xuân Diệu nói Nguyên Hồng có năng khiếu của một nhà văn lớn là thế. Nhưng lý trí yếu, không làm chủ được. Nguyên Hồng có 7 con. Vợ cứ đẻ sòn sòn. Xuân Diệu thì rất ghét người đẻ nhiều, vô kế hoạch. Đi đâu ông cũng tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch. Ông bực với Nguyên Hồng “Sao đẻ nhiều thế?”. Nguyên Hồng có câu trả lời rất lạ “Vì vợ tôi nó xấu”. Xuân Diệu kể với tôi chuyện này, và nói anh không hiểu được ý nó muốn nói gì. Tôi nghĩ chắc là không làm chủ được cảm xúc, không làm chủ được bản năng thế thôi. *** Nhưng Nguyên Hồng có mấy ông con thật không ra gì. Luôn oán bố. Bố chết rồi vẫn thù oán. Tô Hoài nói với tôi như vậy. Đang yên đang lành ở Hà Nội, đùng đùng đưa cả nhà lên cái quả đồi sỏi đá heo hút, khiến vợ con đói khát, phải mò cua bắt ốc, ăn khoai ăn sắn. Nhưng bố chết rồi vẫn còn thù oán thì quá tệ. Mà cái lý do ông bỏ biên chế, bỏ Hà Nội, phải nói là rất đáng phục chứ! Hồi Hải Phòng tổ chức một cuộc hội thảo về Nguyên Hồng nhân ngày giỗ đầu của ông Nguyên Hồng vốn là chủ tịch Hội Văn nghệ Hải Phòng, người ta cho xe đón Hồng Hà anh con cả của Nguyên Hồng đi dự. Anh ta không đi. Vào khoảng 1986, 1987, tôi có biên soạn cuốn Nguyên Hồng, con người và sự nghiệp. Tôi nói với Hồng Hà về bảo mẹ kể lại những kỉ niệm về bố rồi viết lại cho tôi một bài để đưa vào tập sách. Anh ta không làm. Thế mà sinh thời, Nguyên Hồng từng làm một bài thơ dài rất thống thiết “Hồng Hà, con ơi!” Tôi lo lắng cho cái tủ không khoá ở Nhã Nam dựng các bản thảo, nhật kí của Nguyên Hồng, nay có còn không? Nguyên Hồng còn có một người con trai khác tên là Giang vẫn ở Nhã Nam. Hôm tôi lên thăm mộ Nguyên Hồng, có gặp Giang. Anh ta không nói gì về sự nghiệp của bố mà cứ khuyên tôi nghiên cứu Tản Đà. Mà cứ nói đi nói lại mấy lần. Trong khi đó, chưa có ai sưu tầm tài liệu để làm Toàn tập Nguyên Hồng. Đúng là Nguyên Hồng chết rồi vẫn khổ! Láng Hạ

hồi ký nguyên hồng