quan niệm về bản chất giáo dục như vậy hoàn toàn đối lập với các quan niệm phiến diện, sai lầm về quá trình giáo dục, đó là tách rời quá trình giáo dục với quá trình xây dựng, cải Đóng góp ý kiến vào triển khai thực hiện giám sát chuyên đề đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, một số chuyên gia, đại biểu Quốc hội nêu quan điểm: Đoàn giám sát nên chú ý hơn đến việc xem xét, giám sát việc hoàn thiện và thực hiện luật pháp liên quan như quy trình biên soạn, thẩm Giáo dục phổ thông: gồm đủ tất cả các môn học của chương trình giáo dục phổ thông lúc đó đang được giảng dạy trong các trường trung học trên toàn quốc, tức là các môn Triết Học (riêng cho Lớp 12), Quốc Văn, Sinh Ngữ (Anh Văn và Pháp Văn), Sử Địa (được gọi Nhìn chung cơ sở vật chất của nhiều nhà trường phổ thông còn hạn chế; hạn chế trong đổi mới phương pháp dạy học. Hình thức quản lí nhà trường, hoạt động chuyên môn của giáo viên cũng đã quen với quản lí tách biệt 3 môn Vật lý, Hóa học, Sinh học. Theo Luật giáo dục nước CHXHCN Việt Nam 2005, sửa đổi 2009 đưa ra quan niệm pháp lý "CTGD thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo". Bao gồm toàn bộ các tính năng khác và các tính năng đặc trưng. Quản lý nhiều trung tâm, chi nhánh. Doanh thu, chi phí của từng trung tâm, nhiều trung tâm. Báo cáo tổng thể trung tâm theo tuần, tháng, quý, năm. Quản lý kinh doanh, salers, chiến lược. Tỉ lệ lấp đầy của trung tâm Chương trình Giáo dục thường xuyên cấp Trung học Phổ thông được tổ chức linh hoạt theo các hình thức: Tập trung, vừa làm vừa học để phù hợp đặc điểm, nguyện vọng của người học, điều kiện dạy học của các địa phương; khuyến khích các địa phương tổ chức de3Y. Tôi là hiệu trưởng trường THPT tại Hồ Chí Minh, ban biên tập cho tôi hỏi có hướng dẫn nào thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông năm 2022 không? Tôi cảm ơn! Nhà trường cần đảm bảo hoạt động giáo dục được triển khai khoa học và không gây áp lực đối với học sinh THPT? Hướng dẫn cha mẹ học sinh chuẩn bị các điều kiện học tập thích ứng với việc nhà trường triển khai thực hiện Đề án GD thông minh, Chuyển đổi số, Dạy Tin học theo chuẩn Quốc tế? Tiếp tục thực hiện đổi mới đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá theo hướng chuyển đổi mục tiêu dạy học “tiếp cận kiến thức” sang “tiếp cận hình thành năng lực”? Nhà trường cần đảm bảo hoạt động giáo dục được triển khai khoa học và không gây áp lực đối với học sinh THPT?Căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn 2522/SGDĐT-GDTrH năm 2022 của Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh năm 2022 hướng dẫn triển khai hoạt động giáo dục một cách khoa học, sư phạm và không gây áp lực đối với học sinh THPT như sau"Sở Giáo dục và Đào tạo GDĐT hướng dẫn các đơn vị trong việc tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 năm học 2022-2023 như sau 1. Chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo hướng mở, trong đó quy định tổng số tiết trong một năm học cho mỗi môn học, hoạt động giáo trường chủ động bố trí thời gian triển khai kế hoạch giáo dục các môn học và hoạt động giáo dục trong năm học bảo đảm tính khoa học, sư phạm, không gây áp lực đối với học sinh. Căn cứ các nội dung đã triển khai tại hội nghị triển khai Chương trình GDPT 2018, các đơn vị xây dựng các phương án phù hợp, tổ chức tư vấn và định hướng cho học sinh lớp 10 chọn môn học lựa chọn và cụm chuyên đề học tập lựa chọn theo qui định và đúng tiến độ. Lưu ý việc xây dựng các phương án và tổ chức triển khai chọn môn học lựa chọn và cụm chuyên đề học tập lựa chọn phải đáp ứng nhu cầu của học sinh, bảo đảm phù hợp với điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của nhà trường. Nhà trường công khai các phương án lựa chọn và tăng cường công tác tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh lựa chọn môn học và các cụm chuyên đề học tập lựa chọn phải phù hợp với định hướng nghề nghiệp. Trường hợp đặc biệt, học sinh có nguyện vọng chuyển đổi môn học lựa chọn và cụm chuyên đề học tập lựa chọn, hiệu trưởng xem xét quyết định và báo cáo Sở GDĐT. Hiệu trưởng tổ chức xây dựng dự thảo kế hoạch giáo dục nhà trường, hướng dẫn tổ, nhóm thảo luận, thống nhất nội dung kế hoạch giáo dục tổ, nhóm môn học để thực 2 hiện chương trình Chương trình GDPT 2018 ở khối lớp 6, 7, 10 và Chương trình GDPT hiện hành Quyết định 16 ở các khối 8, 9, 11, 12. Căn cứ kế hoạch giáo dục tổ, nhóm môn học giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân và kế hoạch bài dạy chuẩn bị cho năm học 2022-2023."Theo đó, nhà trường cần chủ động bố trí thời gian triển khai kế hoạch giáo dục các môn học và hoạt động giáo dục trong năm học bảo đảm tính khoa học, sư phạm, không gây áp lực đối với học dẫn cha mẹ học sinh chuẩn bị các điều kiện học tập thích ứng với việc nhà trường triển khai thực hiện Đề án GD thông minh, Chuyển đổi số, Dạy Tin học theo chuẩn Quốc tế?Căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn 2522/SGDĐT-GDTrH năm 2022 của Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh năm 2022 hướng dẫn về thông tin truyền thông đối với cha mẹ học sinh như sau“2. Thông tin truyền thông để học sinh, cha mẹ học sinh hiểu rõ quy định về chương trình giáo dục trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông. Thông qua cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm, giáo viên chủ nhiệm giải thích, hướng dẫn để phụ huynh hiểu những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện chương trình GDPT 2018 để cùng phối hợp. Hướng dẫn cha mẹ học sinh chuẩn bị các điều kiện học tập thích ứng với việc nhà trường triển khai thực hiện Đề án GD thông minh, Chuyển đổi số, Dạy Tin học theo chuẩn Quốc tế và nhất là trường học phối hợp việc dạy học trên lớp với việc tổ chức cho học sinh học tập trên Internet qua các hệ thống quản lý học tập LMS.”Theo đó, cần phải thông tin truyền thông để học sinh, cha mẹ học sinh hiểu rõ quy định về chương trình giáo dục trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp ở cấp dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông năm 2022 Đảm bảo hoạt động giáo dục không gây áp lực đối với học sinh? Hình từ internetTiếp tục thực hiện đổi mới đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá theo hướng chuyển đổi mục tiêu dạy học “tiếp cận kiến thức” sang “tiếp cận hình thành năng lực”? Căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn 2522/SGDĐT-GDTrH năm 2022 của Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh năm 2022 hướng dẫn tăng cường công tác kiểm tra nội bộ nhà trường như sau- Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ nhà trường trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện chương trình GDPT 2018; đổi mới công tác quản lý; giảm hồ sơ, sổ sách; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và tạo môi trường làm việc sáng tạo cho giáo tục thực hiện đổi mới đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá theo hướng chuyển đổi mục tiêu dạy học “tiếp cận kiến thức” sang “tiếp cận hình thành năng lực” phù hợp với kế hoạch giáo dục từng môn học theo Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT ngày 20/7/ trọng đổi mới phương pháp, kỹ thuật, hình thức tổ chức, không gian tổ chức các hoạt động dạy học, sử dụng linh hoạt các thiết bị dạy học, vận dụng kết dạy học trực tiếp và dạy học qua internet để mở rộng thời gian, không gian tổ chức học tập cho học sinh, giúp học sinh có kế hoạch học tập cá nhân chủ động và hứng thú hơn học cứ Quyết định 2360/QĐ-UBND ngày 12/7/2022 của Ủy ban nhân dân Thành phố về phê duyệt danh mục SGK và kết quả đề xuất lựa chọn SGK của nhà trường đã thực hiện, các đơn vị thông báo danh mục SGK sử dụng trong năm học hiện mua sắm đầy đủ SGK theo danh mục phê duyệt của BGD cho thư viện. Thống kê số lượng SGK cần thiết theo nhu cầu của học sinh để phối hợp với tất cả các NXB đảm bảo có đầy đủ và kịp thời SGK cho năm học vậy, nhà trường cần phải chủ động bố trí thời gian triển khai kế hoạch giáo dục các môn học và hoạt động giáo dục trong năm học bảo đảm tính khoa học, sư phạm, không gây áp lực đối với học sinh THPT. Lường trước những khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh, mỗi giáo viên, cơ sở giáo dục đã chủ động, nỗ lực đưa ra các giải pháp vượt qua, từng bước đáp ứng yêu cầu đổi mới. Tín hiệu tích cực từ thực tiễn Hơn một tháng qua, kể từ ngày khai giảng, việc dạy và học của thầy, trò khối 6, Trường phổ thông dân tộc nội trú THCS huyện Chợ Mới Bắc Kạn có nhiều đổi thay. Có mặt trong giờ học môn Giáo dục công dân, chúng tôi cảm nhận được sự sôi nổi khi cô giáo giảng bài bằng máy chiếu, chia nhóm thảo luận về nội dung bài học. Học sinh đều chủ động phát biểu ý kiến cho nên nội dung học dễ ghi nhớ. Cô giáo Nguyễn Như Trang cho biết, kế hoạch dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông mới gồm bốn hoạt động Khởi động, kiến thức mới, luyện tập và vận dụng. Vì vậy, ngay từ khâu soạn bài, giáo viên phải xác định được mục tiêu, nội dung, cách thực hiện và sản phẩm đạt được để truyền đạt tới học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Đây không phải điều dễ dàng, nhất là đối với đội ngũ giáo viên vốn đã quen với cách dạy truyền thống. Tuy nhiên, nhờ được tập huấn kỹ, chuẩn bị tốt cho nên mọi việc đã vào “guồng” nhanh chóng. Từ đầu năm học đến nay, Hà Nội là một trong những địa phương chịu tác động nặng bởi dịch Covid-19, toàn bộ học sinh học tập theo hình thức trực tuyến. Cô giáo Phạm Thị Hồng Thủy, giáo viên Vật lý, dạy môn Khoa học tự nhiên, lớp 6, Trường THCS Chu Văn An Tây Hồ, Hà Nội cho biết, trong mỗi bài học, lượng kiến thức được chia nhỏ nên sau mỗi tiết học, gần như học sinh đã lĩnh hội và nhớ được kiến thức bài học đó. Khó khăn nhất đối với học sinh, giáo viên trong mỗi giờ học trực tuyến không có nhiều sự tương tác, nhiều khi đường truyền internet không ổn định, giáo viên khó bao quát và kiểm soát như dạy ở trên lớp. Tại các tiết học theo chủ đề, theo nhóm, giáo viên thường xuyên vào các nhóm đó để kiểm tra hoạt động học tập của học sinh nên mất khá nhiều thời gian. Thầy giáo Đặng Việt Hà, Hiệu trưởng THCS Chu Văn An cho rằng, đối với lớp 6, để thực hiện hiệu quả chương trình mới cần nhiều yếu tố, trong đó cần sự linh hoạt trong xây dựng kế hoạch giáo dục, tổ chức dạy học và kiểm tra, đánh giá. Mặc dù đầu năm học khi triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới ở lớp 6 cũng gặp một số khó khăn như sắp xếp thời khóa biểu, phân công giáo viên, phân chia chương trình các môn tích hợp, thiếu thiết bị học tập…, tuy nhiên, sau một thời gian ngắn, trường khắc phục được các hạn chế, việc dạy học đi vào nền nếp. Trao đổi về thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới đối với lớp 2, cô giáo Nguyễn Thị Nhung, giáo viên chủ nhiệm lớp 2b, Trường tiểu học thị trấn Cao Thượng Tân Yên, Bắc Giang cho biết, khi dạy theo chương trình giáo dục phổ thông mới, giáo viên dạy bộ sách do chính mình lựa chọn cho nên cũng thuận lợi. Học sinh tiếp cận chương trình, sách giáo khoa mới dễ dàng vì các bài học có nhiều hình ảnh đẹp, sinh động, hấp dẫn; kiến thức trong sách giáo khoa gần gũi, thân quen. Chương trình mới phù hợp nên giáo viên có thể đổi mới phương pháp dạy học một cách đa dạng, linh hoạt hơn. Việc kiểm tra, đánh giá đòi hỏi cao hơn nhưng cơ bản đáp ứng yêu cầu. Theo Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo GD và ĐT Bắc Kạn Đoàn Văn Hương, sau hơn một tháng triển khai chương trình mới đối với lớp 2, lớp 6 và một năm triển khai đối với lớp 1, Bắc Kạn đã thực hiện tốt nội dung chương trình, tạo chuyển biến tích cực trong dạy và học. Giáo viên cơ bản bắt nhịp với việc đổi mới, trong các giờ giảng, nhất là giáo viên đã tương tác nhiều hơn với học trò. Học sinh cũng tích cực, chủ động hơn trong tiếp thu kiến thức. Giám đốc Sở GD và ĐT Bắc Giang Trần Tuấn Nam cho rằng, chương trình, sách giáo khoa mới đã và đang được vận hành, phát huy những ưu điểm về tổ chức dạy học, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Tiếp tục khắc phục khó khăn Theo Trưởng phòng GD và ĐT huyện Chợ Mới Bắc Kạn Lâm Tiến Anh, đối với lớp 6, do cơ cấu môn học thay đổi, cho nên nhiều cơ sở giáo dục gặp khó khăn trong bố trí giáo viên. Đơn cử như, theo chương trình mới môn Khoa học xã hội được tích hợp Lịch sử, Địa lý. Tuy nhiên, dù được coi là một môn nhưng vẫn phải bố trí hai giáo viên Lịch sử và Địa lý đứng lớp. Phó Giám đốc Sở GD và ĐT Bắc Kạn Đoàn Văn Hương chia sẻ, năm học 2021 - 2022, số lớp tăng lên nhưng chỉ tiêu biên chế giáo viên lại không đáp ứng yêu cầu. Trên địa bàn tỉnh hiện còn thiếu 179 giáo viên tiểu học và 134 giáo viên THCS. Việc điều chuyển, bố trí dạy liên trường bước đầu đã khắc phục tình trạng thiếu giáo viên khi triển khai chương trình đối với lớp 1, lớp 2 và lớp 6. Tuy nhiên, việc triển khai chương trình mở rộng sẽ là áp lực, khó khăn lớn đối với ngành giáo dục Bắc Kạn. Việc thiếu trường, lớp học; nhiều lớp học được xây dựng từ lâu, có diện tích nhỏ hẹp chỉ bố trí được khoảng từ 20 đến 25 học sinh/lớp cũng là một trong những khó khăn cần khắc phục khi triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới. Vụ trưởng Giáo dục Trung học Bộ GD và ĐT Nguyễn Xuân Thành cho biết, trong hơn một tháng bước vào năm học mới, do ảnh hưởng dịch bệnh, phải giãn cách xã hội trên diện rộng, phần lớn các cơ sở giáo dục đã tổ chức dạy học trực tuyến, một số nơi dạy học trên truyền hình. Tuy nhiên, các địa phương, cơ sở giáo dục cũng tập trung, ưu tiên chỉ đạo dạy học đối với lớp 6. Qua theo dõi, nắm bắt tình hình, các thầy, cô giáo đã hiểu rõ chương trình cũng như yêu cầu về phát triển năng lực học sinh, chú trọng phương pháp dạy học tích cực. Tuy nhiên, hiện nay các trường đang gặp khó khăn trong việc bố trí giáo viên dạy một số môn học tích hợp như Khoa học tự nhiên gồm các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học. Bộ GD và ĐT đã kiểm tra một số địa phương và nhận thấy, các trường gặp khó khăn trong việc xếp thời khóa biểu chưa thực hiện theo hướng dẫn của Bộ GD và ĐT. Theo hướng dẫn của bộ thì các môn học không nhất thiết chia đều kiến thức theo tuần, nhưng các trường vẫn xếp thời khóa biểu của các tiết học, môn học, đặc biệt môn Vật lý, Hóa học, Sinh học theo tuần, dẫn tới một số giờ học không bảo đảm. Hiện nay, Bộ GD và ĐT đang tiếp tục hướng dẫn để các trường sắp xếp dạy học cho phù hợp chương trình mới. Tại Hà Nội, tất cả các trường THCS đã sắp xếp được thời khóa biểu bảo đảm đúng lô-gic dạy môn Khoa học tự nhiên lớp 6. Thời gian tới, những nơi đủ điều kiện cho học sinh quay trở lại trường. Các cơ sở giáo dục một mặt tiếp tục thực hiện chương trình đối với nội dung tiếp theo, đồng thời kiểm tra, củng cố lại những kiến thức mà các em đã học. Đối với những nơi khó khăn chưa thể cho học sinh quay trở lại trường mà đến thời điểm kiểm tra, đánh giá định kỳ thì tổ chức kiểm tra, đánh giá định kỳ bằng hình thức trực tuyến nhưng vẫn phải bảo đảm đúng mục tiêu, nội dung, kiến thức, kỹ năng chương trình giáo dục phổ thông mới đặt ra. Học sinh lớp 6A9 - Trường THCS Ngô Sĩ Liên, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội trong giờ học trực tuyến. Ảnh DIỆU THU Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ báo cáo tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII. Trong bài tham luận của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những kết quả mà ngành giáo dục đào tạo đạt được như sau Những kết quả nổi bật Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện Bộ GD-ĐT đã rà soát, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất cập tồn tại từ nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục sửa đổi, ban hành mới năm 2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Đến nay, về cơ bản các chủ trương của Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3… Theo Bộ trưởng Nhạ, chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong dạy và học của giáo viên đã có những thành công bước đầu. Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1, với tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng trong năm học 2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ. Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực chất, hiệu quả hơn Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học. Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang tích lũy mô đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học, cao đẳng được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển. Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á SEA PLM năm 2019 cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Trong các đợt đánh giá PISA, Việt Nam có kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong khối OECD trong khi mức đầu tư cho giáo dục thấp hơn hẳn. Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm vừa qua có bước tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016-2020 so với 27 huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015; nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm số cao nhất ở các nội dung thi. Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển biến tích cực Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ cao, thì từ năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ tương đối toàn diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ. Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top trường đại học tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành giáo dục Toàn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các hoạt động dạy và học; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thí sinh phấn chấn kết thúc ngày thi đầu tiên 5 hạn chế, bất cập Cũng theo Bộ trưởng Nhạ, sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo dục vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Đó là công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập, trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường. Thứ hai là tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội. Thứ ba là quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm. Thứ tư là hệ thống quản lý, quản trị, kết nối, khai thác dữ liệu ngành phục vụ công tác quản lý, điều hành, dạy học còn chưa đồng bộ; một số nơi hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị kết nối còn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Và bất cập thứ năm là công tác truyền thông về giáo dục còn hạn chế, chưa tạo được đồng thuận cao trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành. Truyền thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ giáo viên khi triển khai chính sách mới. Ông Nhạ cũng trình bày một loạt giải pháp tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Các giải pháp này thuộc 5 nhóm, trong đó được coi là đột phá là nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường. Ngoài ra là các nhóm giải pháp về Phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; Tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp; Đẩy nhanh chuyển đổi số trong giáo dục và Tăng cường công tác truyền thông. Ngân Anh Bài tham luận của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 27/1. Bà Dominique Altner, Chuyên gia Chương trình Cao cấp tại Viện chiến lược giáo dục UNESCO, đã có những chia sẻ về sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong 5 năm vừa qua. Nghị quyết 88 quy định 'Ưu tiên hỗ trợ đầu tư kinh phí cho các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để bảo đảm điều kiện tối thiểu thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông'. Tuy nhiên, báo cáo của các địa phương chưa rõ kinh phí chi ngân sách địa phương cho thực hiện đổi mới chương giáo khoa giáo dục phổ thông do chưa có nguồn kinh phí riêng cho việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Qua giám sát thực tế cho thấy, việc bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất được các địa phương thực hiện lồng ghép thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia và nguồn vốn của địa phương nên việc triển khai phụ thuộc vào khả năng cân đối của các địa phương dẫn đến mức độ đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 của các địa phương khác nhau. Việc bố trí ngân sách của các địa phương để thực hiện tập huấn, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục phổ thông còn khó khăn, chủ yếu lồng ghép trong ngân sách chi thường xuyên; việc xã hội hóa giáo dục gặp nhiều khó quý vị và các bạn theo dõi nội dung chi tiết!Thực hiện Phan Hằng Đỗ Minh Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ báo cáo tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII. Trong bài tham luận của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những kết quả mà ngành giáo dục đào tạo đạt được như sau Những kết quả nổi bật Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện Bộ GD-ĐT đã rà soát, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất cập tồn tại từ nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục sửa đổi, ban hành mới năm 2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Đến nay, về cơ bản các chủ trương của Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3... Theo Bộ trưởng Nhạ, chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong dạy và học của giáo viên đã có những thành công bước đầu. Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1, với tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng trong năm học 2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ. Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực chất, hiệu quả hơn Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học. Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang tích lũy mô đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học, cao đẳng được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển. Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á SEA PLM năm 2019 cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Trong các đợt đánh giá PISA, Việt Nam có kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong khối OECD trong khi mức đầu tư cho giáo dục thấp hơn hẳn. Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm vừa qua có bước tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016-2020 so với 27 huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015; nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm số cao nhất ở các nội dung thi. Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển biến tích cực Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ cao, thì từ năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ tương đối toàn diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ. Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top trường đại học tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành giáo dục Toàn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các hoạt động dạy và học; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thí sinh phấn chấn kết thúc ngày thi đầu tiên 5 hạn chế, bất cập Cũng theo Bộ trưởng Nhạ, sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo dục vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Đó là công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập, trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường. Thứ hai là tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội. Thứ ba là quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm. Thứ tư là hệ thống quản lý, quản trị, kết nối, khai thác dữ liệu ngành phục vụ công tác quản lý, điều hành, dạy học còn chưa đồng bộ; một số nơi hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị kết nối còn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Và bất cập thứ năm là công tác truyền thông về giáo dục còn hạn chế, chưa tạo được đồng thuận cao trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành. Truyền thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ giáo viên khi triển khai chính sách mới. Ông Nhạ cũng trình bày một loạt giải pháp tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Các giải pháp này thuộc 5 nhóm, trong đó được coi là đột phá là nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường. Ngoài ra là các nhóm giải pháp về Phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; Tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp; Đẩy nhanh chuyển đổi số trong giáo dục và Tăng cường công tác truyền thông. Ngân Anh Tham luận của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo tại Đại hội XIII Bài tham luận của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 27/1. Chuyên gia UNESCO nêu 2 khuyến nghị cho Giáo dục Việt Nam Bà Dominique Altner, Chuyên gia Chương trình Cao cấp tại Viện chiến lược giáo dục UNESCO, đã có những chia sẻ về sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong 5 năm vừa qua.

hạn chế của chương trình giáo dục phổ thông mới