Một số hành vi thất thường của con trẻ đôi khi lại là dấu hiệu cho thấy trẻ có một tài năng nào đó. Ví dụ, nếu trẻ nhà bạn có 4 hành vi bất thường này trước 6 tuổi thì rất có thể con bạn sẽ là một "cao thủ toán học" trong tương lai. 1. Làm việc theo nguyên tắc Hành vi của trẻ có thể sẽ gây ảnh hưởng vừa hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến người khác. Những hành vi được coi là rối loạn ở mức độ vừa bao gồm phá hoại và trộm cắp. Mức độ nặng. Những hành vi của trẻ sẽ gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho người khác. Những nội dung tại buổi hội thảo này thuộc ba nhóm chủ đề chính của "Sinh Con, Sinh Cha" về phát triển trí tuệ (Cùng con lớn khôn), hành vi (Cùng con hành xử) và sức khỏe (Cùng con sống khỏe) của trẻ từ 0 - 6 tuổi. Hội thảo cộng đồng "Sinh Con, Sinh Cha" tại Tp.HCM có sự 4 Cách khen thưởng, động viên những hành vi mới của trẻ và hình thành những hành vi mong muốn cho trẻ 5 Bạn nên chọn những hình thức khen thưởng nào cho bé? 5.1 Bấm giờ đồng hồ (một cách rất tốt đối với những đứa trẻ thường làm chậm chạp) Hành vi xâm hại trẻ em dù thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương, bị bóc lột và cần được chăm sóc trong xã hội, vì vậy bất kỳ hành vi nào làm tổn hại đến trẻ em đều bị xử lý nghiêm khắc bằng việc xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự. Nhiều cha mẹ nghĩ rằng: "bé còn quá nhỏ để hiểu một hành động là đúng hay sai". Trên thực tế, Gs.Bs. Gardner, ĐH Oxford, Anh Quốc, đã cho thấy rằng: các bé từ 6 tháng tuổi có thể bắt đầu học hành vi, hầu hết các bé trước 5 tuổi đều bắt chước, nắm bắt thành thạo hành vi của cha mẹ và có thể hiểu - Hành vi của trẻ khiến bạn lo lắng cả tháng liền. - Bạn không thể kiểm soát tình huống. - Những người xung quanh bị ảnh hưởng bởi hành vi của trẻ. - Hành vi thay đổi đột ngột mà không có lý do rõ ràng. Ví dụ, nếu trẻ bỗng nhiên cư xử dè dặt hoặc thô lỗ với bạn bè, bạn hãy hỏi han để tìm ra vấn đề. jEeUc. Hành vi trẻ sơ sinh, có thể nói là một “môn học” đòi hỏi các bậc phụ huynh đều phải tham gia để hiểu hết những biểu hiện của trẻ. Nội dung “bài học” bao gồm những gì? Mời bố mẹ cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé! Hành vi trẻ sơ sinh – Giấc ngủ Hành vi trẻ sơ sinh – Khóc Hành vi trẻ sơ sinh – Phản xạ Hành vi trẻ sơ sinh – Thở Hành vi trẻ sơ sinh – Nhìn Hành vi trẻ sơ sinh – Thính giác Nếu mẹ sanh non, đừng bao giờ so sánh sự phát triển của bé với những đứa trẻ sơ sinh đủ tháng. Trẻ sơ sanh sanh non thường phát triển sau những đứa trẻ đủ tháng. Nếu con bạn chào đời sớm hơn 2 tháng, bé có thể phát triển chậm hơn 2 tháng so với bé đủ tháng. Bác sĩ sẽ theo dõi tiến triển phát triển của trẻ sơ sinh. Khám bác sĩ nếu mẹ nghĩ rằng bé đang phát triển với một tỷ lệ chậm hơn nhiều so với mức bất thường. Giấc ngủ của trẻ sơ sinh có đặc điểm gì? Trẻ sơ sinh thường ngủ từ 20h mỗi ngày và 4 giờ mỗi lần, tối đa 20 giờ mỗi ngày. Dạ dày của bé thì nhỏ, vì vậy bé cần được cho ăn mỗi vài giờ. Trẻ sơ sinh có thói quen ngủ khác nhau, nhưng ở 3 tháng, hầu hết trẻ ngủ 6 đến 8 tiếng một đêm. Mẹ có thể quan tâm Nhận biết những biểu hiển bình thường và không bình thường ở trẻ sơ sinh Chuyện đi ngoài của trẻ sơ sinh – Làm thế nào để biết con bình thường? Hành vi trẻ sơ sinh – Giấc ngủ Hành vi trẻ sơ sinh – Khóc Trẻ sơ sinh có thể khóc nhiều giờ trong ngày. Đó là cách bé giao tiếp của bé khi cần một điều gì. Cùng giải mã tiếng khóc của trẻ sơ sinh Đang đói. Mệt mỏi. Quá lạnh hoặc quá nóng. Cần thay tã của họ. Cần được an ủi. Đầy hơi. Được kích thích quá mức. Đang bị bệnh. Bé cũng khóc khi bị nấc, hắt hơi, ngáp, ói, ợ hơi. Hành vi trẻ sơ sinh – Khóc Đôi khi trẻ sơ sinh khóc không có lý do gì cả. Nếu điều này xảy ra, hãy cố gắng an ủi con bằng cách lắc lư, hát, nói chuyện nhẹ nhàng, hoặc quấn con vào chăn. Chẳng bao lâu mẹ có thể hiểu tiếng khóc của con mình đang cần gì. Mẹ có thể không phải lúc nào cũng dỗ được bé hay chịu được tiếng khóc dai dằng của bé. Đừng lo, đó không phải lỗi của mẹ, và đó là bình thường, không việc gì phải lo ngại cả. Cố gắng kiên nhẫn và bình tĩnh khi trẻ sơ sinh không ngừng khóc. Nếu cần thiết, hãy nhờ người khác giữ trẻ. Không bao giờ vì mất kiểm soát và cố gắng dỗ con mà rung lắc mạnh dưới bất kỳ trường hợp nào. Lắc bé có thể gây tổn thương não nghiêm trọng, được gọi là Hội chứng Rung động của Trẻ, dẫn đến tàn tật suốt đời. Đi khám bác sĩ nếu trẻ sơ sinh khóc nhiều hơn bình thường, khóc vào một thời điểm khác ngoài ngày bình thường, hoặc nếu tiếng khóc có vẻ khác với thông thường. Đây có thể là dấu hiệu cho thấy trẻ sơ sinh bị bệnh. Hành vi trẻ sơ sinh – Phản xạ Trong vài tuần đầu tiên, trẻ sơ sinh duy trì vị trí trong tử cung vị trí của bào thai nắm đấm; khuỷu tay cong, hông, và đầu gối; tay và chân gần với mặt trước của cơ thể. Điều này sẽ thay đổi khi bé phát triển và kiểm soát nhiều hơn các cử động của bé. Trẻ sơ sinh có một vài phản xạ tự nhiên. Hành vi bé sơ sinh – Phản xạ Hiểu được những phản xạ này sẽ giúp bạn hiểu rõ nguyên nhân của một số hành vi của trẻ sơ sinh. Các phản xạ của trẻ sơ sinh bao gồm Phản xạ rễ Trẻ sơ sinh quay về hướng thức ăn và miệng há sẵn sàng để bú. Vuốt nhẹ má bé sơ sinh, mẹ có thế thấy phản ứng này. Các phản xạ mút Nếu mẹ đặt một vật trong miệng của bé, đứa trẻ tự nhiên bắt đầu mút. Phản xạ giật mình Em bé bung tay và chân ra và sau đó co chúng vào khi giật mình. Phản ứng này thường bao gồm khóc. Phản xạ xoay cổ Cổ bé xoay đầu sang một bên và giơ cánh tay ở cùng một bên. Phản xạ nắm Các ngón tay của bé gần sát một vật nằm trong lòng bàn tay của bé. Các phản xạ bước Bàn chân của em bé bắt chước một hành động bước khi bé được giữ thẳng đứng với bàn chân chạm vào một bề mặt cứng. Tay, chân và cằm của em bé có thể run rẩy, đặc biệt khi khóc. Điều này xảy ra vì hệ thần kinh của trẻ sơ sinh không được phát triển đầy đủ. Hành vi trẻ sơ sinh – Thở Không hiếm trường hợp trẻ mới sinh có thể bị hít thở bất thường. Đây là lúc trẻ sơ sinh ngừng thở trong 5 đến 10 giây và sau đó ngay lập tức bắt đầu thở một lần nữa. Mẹ có thể quan tâm 4 nguyên nhân khiến trẻ sơ sinh ngáp nhiều nhưng không ngủ Trẻ sơ sinh hay cười có phải là biểu hiện của một thiên tài? Điều này là bình thường. Tuy nhiên, mẹ nên khám bác sĩ hoặc đưa bé đến phòng cấp cứu nếu trẻ ngừng thở trong thời gian lâu hơn 10 giây hoặc bắt đầu chuyển sang màu xanh xám. Hành vi trẻ sơ sinh – Nhìn Trẻ sơ sinh có thể nhìn thấy ở một khoảng cách gần. Trẻ sơ sinh có thể nhìn thấy sự chuyển động và sự tương phản giữa các đối tượng đen và trắng. Trong vài tháng đầu tiên, bé dễ dàng nhìn những thứ theo một góc độ. Từ 2 đến 3 tháng, trẻ sơ sinh kiểm soát được nhiều cơ mắt hơn và có thể tập trung vào một thứ. Họ cũng có thể theo dõi các vật bằng mắt. Hành vi trẻ sơ sinh – Thính giác Trẻ sơ sinh có thể phân biệt giữa các âm thanh khác nhau. Họ nhận ra tiếng nói quen thuộc, vì vậy mẹ và người thân nên thường xuyên nói chuyện với bé. Hành vi bé sơ sinh – Thính giác Mẹ có thể sớm nhận ra rằng bé quay về phia mẹ khi mẹ nói chuyện hay khi bé nghe giọng của mẹ. Đối với trẻ sơ sinh, ngôn ngữ âm thanh có thể như âm nhạc với nhiều tông màu và nhịp điệu khác nhau bé đều thích nghe. Mặc dù mỗi cha mẹ có cách hiểu và giải thích các dấu hiệu riêng của con mình nhưng các chuyên gia đã đúc rút ra một số quy tắc chung để nhận biết, phân biệt nhu cầu của trẻ. Theo đó, cha mẹ cần quan tâm đến tiếng khóc, âm thanh em bé tạo ra và hành động của bé. Càng hiểu rõ về trẻ, phụ huynh càng cảm thấy thú vị và dễ nhận biết những dấu hiếu bất thường từ đó có các biện pháp can thiệp kịp thời tránh để tình trạng nghiêm trọng hơn. Xem thêm Giọng nói của mẹ ảnh hưởng đến sự phát triển não của em bé như thế nào? CHĂM SÓC TRẺ SƠ SINH 6 Điều cha mẹ cần tuyệt đối tránh! 4 biểu hiện hành vi bất thường của trẻ sơ sinh có liên quan đến não và thần kinh của bé! Vào ngay Fanpage của the Asianparent Vietnam để cùng thảo luận và cập nhật thông tin cùng các cha mẹ khác! Bạn có quan tâm tới việc nuôi dạy con không? Đọc các bài báo chuyên đề và nhận câu trả lời tức thì trên app. Tải app Cộng đồng theAsianparent trên IOS hay Android ngay! Các hành vi tự hại ở trẻ vị thành niên đang gây ra sự chú ý và quan tâm ngày càng tăng trên toàn thế giới.. Cá nhân thường bắt đầu thực hiện hành vi tự hại vào giai đoạn đầu tuổi vị thành niên, từ 12 đến 14 tuổi thường liên quan đến việc cắt hoặc khắc lên da [1]. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đã chỉ ra hành vi tự hại cũng có thể bắt đầu khi trẻ dưới 12 tuổi hoặc trên 14 tuổi [1,2] và họ có thể duy trì hành vi tự hại cho đến tuổi trưởng thành [3].Một số nghiên cứu đã báo cáo hành vi tự hại có thể xuất hiện trong một loạt các rối loạn, chẳng hạn như rối loạn căng thẳng sau chấn thương, rối loạn phân ly, rối loạn hành vi, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn bùng nổ gián đoạn, rối loạn lo âu, rối loạn khí sắc, rối loạn sử dụng chất kích thích, rối loạn ăn uống và rối loạn nhân cách ranh giới. Tuy nhiên không phải tất cả các nghiên cứu đều đưa ra bằng chứng xác nhận mối liên quan giữa hành vi tự hại và rối loạn tâm thần [1-5].1. Hành vi tự hại là gì?Hành vi tự hại non-suicidal self-injury là hiện tượng tự gây thương tích cho bản thân, ám chỉ một hành vi hủy hoại trực tiếp và có chủ ý của một cá nhân với chính bản thân mình. Tuy nhiên, hành vi này không đồng nghĩa với việc họ có ý định tự tử/ tự sát. Hành vi tự hại có thể thay đổi từ mức độ nhẹ ví dụ như tần suất thấp và tổn hại nhẹ như là trầy xước, trung bình ví dụ như tần suất thường xuyên và tổn hại hơn, có thể cần chăm sóc y tế đến nặng ví dụ như tần suất dày đặc hơn, chấn thương nặng và suy yếu [1,3,6].2. Mối liên hệ giữa hành vi tự hại và hành vi tự tử/ tự sátNghiên cứu cho thấy rằng hành vi tự hại là có thể yếu tố dự báo mạnh mẽ về những nỗ lực tự sát trong tương lai của một cá nhân [7,8]. Tuy những người cố gắng thực hiện hành vi tự sát có điểm số cao hơn trong các thang đo về lo âu, trầm cảm và các ý tưởng tự tử so với những người thực hiện những hành vi tự hại [6,7]. Nghiên cứu nhận thấy nếu hành vi tự hại được thực hiện một cách thường xuyên và lâu dài, có thể dẫn tới nỗ lực tự sát ở cá nhân [9]. Điều này cho thấy, mặc dù hành vi tự hại có thể không trực tiếp dẫn đến nỗ lực tự sát, nhưng cũng không loại trừ khả năng hành vi tự hại có thể trở thành nguy cơ cho hành vi tự tử trong tương lai [7-9].Sự khác biệt rõ ràng giữa hành vi tự hại và hành vi tự sát là trong khi hành vi tự hại có thể được sử dụng như một cách thức không phù hợp để họ đối phó với vấn đề gặp phải như căng thẳng tâm lý, nhằm điều chỉnh cảm xúc. Hành vi tự sát thể hiện mong muốn kết thúc cuộc sống của một người [5],[10].3. Tiêu chí chẩn đoán theo DSM-5Theo Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ [11], liệt kê hành vi tự hại là một chẩn đoán riêng biệt, trong khi các phiên bản trước của Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần của Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ - viết tắt là DSM chỉ bao gồm hành vi tự hại như một triệu chứng của rối loạn nhân cách ranh giới chứ không phải là một chẩn đoán riêng biệt [12]. Quy định giữa các tiêu chí về hành vi tự tử và hành vi tự hại là rất quan trọng trong việc chẩn đoán phân loại rối loạn để có liệu trình can thiệp phù DSM-V, để đáp ứng các tiêu chí cho chẩn đoán hành vi tự hại, một người phải cố ý tự gây thương tích cho bề mặt cơ thể từ 5 ngày trở lên mà không có ý định tự tử/ tự sát trong năm qua [3,11]. Hành vi tự hại phải gắn liền với một trong các tiêu chí sau [3,11]Cá nhân có hành vi tự hại kỳ vọng được giải thoát khỏi cảm xúc tiêu cực, giải quyết vấn đề cá nhân, tạo ra các cảm xúc tích vi tự làm tổn thương gắn với một trong các tình huốngcá nhân trải qua các cảm xúc tiêu cực trước khi có hành vi;cá nhân chuẩn bị cho hành vi cẩn thận trước khi hành vi diễn ra;cá nhân nghĩ nhiều tới hành vi này ngay cả khi nó không diễn quan trọng đối với hành vi đáp ứng các tiêu chí cho chẩn đoán của hành vi tự hại là hành vi không được xã hội chấp vi tự hại thường dẫn đến đau khổ đáng kể cho cuộc sống của cá nhân đó. Hành vi hoặc hậu quả của nó có thể gây căng thẳng đáng kể với cuộc sống thường nhật của cá ra, hành vi tự hại không diễn ra trong giai đoạn loạn thần, mê sảng, say chất, hoặc cai nghiện chất, hành vi không thể được giải thích bởi các tình trạng bệnh lý Phân loại các biểu hiện hành vi tự hạiCác hành vi gián tiếp Việc uống nhiều rượu, ăn thức ăn nhiều chất béo, hút thuốc lá,..những hành vi này thường không được thực hiện với mục đích gây tổn hại cho bản thân, mà thay vào đó được thực hiện vì chúng mang lại niềm vui, sự thích thú tạm thời và hậu quả gây ra là tác dụng phụ gián tiếp và ngoài ý muốn. Những hành vi như vậy thường không được gọi là tự gây thương tích hoặc tự làm hại bản thân, mà là hành vi gián tiếp tự gây tổn hại cho bản thân, tự đánh bại bản thân hoặc hành vi không lành mạnh [6]. Ngoài ra, văn hóa, dân tộc, bối cảnh sinh sống có thể tác động đến việc lựa chọn hình thức thực hiện này, chẳng hạn như hành vi tự gây thương tích có chủ ý sẽ được che giấu bằng cách thực hiện các hình thức được văn hóa họ sống chấp nhận ví dụ xăm hình, đeo khuyên.. [1,2].Các hành vi trực tiếp Cắt da/ rạch tay là loại phổ biến nhất trong các hành vi tự hại. Ngoài ra, các hình thức khác bao gồm chà xát, cắn, đốt, cào, đập hoặc đánh vào các bộ phận cơ thể và ngăn chặn việc chữa lành vết thương [4].5. Tại sao cá nhân lại thực hiện hành vi tự hại?Các yếu tố giải thích cho sự hình thành của các hành vi tự hại có thể được chia thành hai loại chính cá nhân và môi trường [1,6]. Một vài yếu tố cụ thể sẽ được nói đến dưới đâya Các yếu tố cá nhânGiải tỏa căng thẳng/ cảm xúc tiêu cực/ sự khó chịu Tuổi thành niên là một giai đoạn phát triển dễ bị tổn thương khi cá nhân đối mặt với nhiều thay đổi lớn trong cuộc sống ví dụ họ phải tập quen với cách sống tự lập, tự chủ, tự quyết định những sự việc liên quan đến mình, những thách thức trong quá trình học tập, căng thẳng điểm số hay những tình huống bất ngờ đòi hỏi họ phải có kỹ năng giải quyết vấn đề khi họ chưa đủ năng lực cũng như kinh nghiệm để xoay sở....Vì vậy, trải qua những thay đổi xảy ra có thể dẫn đến nhiều căng thẳng cho cá nhân, ví dụ họ đang dần chuyển từ sự phụ thuộc vào cha mẹ sang sự độc lập tương đối, điều này đòi hỏi nhiều khả năng đối phó với các vấn đề trong cuộc sống. Thời điểm chuyển đổi này được đánh dấu bằng sự thay đổi đáng kể trong việc tự đảm đương trách nhiệm cao và quyết định tự lựa chọn có thể dẫn đến cả sự thỏa mãn cũng như căng thẳng. Vì thế, căng thẳng có thể sẽ xảy ra khi các nhu cầu về tinh thần, cảm xúc và / hoặc thể chất vượt quá khả năng điều tiết của cơ thể [3].Trước khi thực hiện hành vi tự hại là một loạt sự gia tăng cảm giác như tức giận, căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, phiền muộn và cảm giác “đau khổ” nói chung hoặc cảm giác đau đớn, ràng buộc mà người đó cảm thấy họ không thể thoát khỏi hoặc kiểm soát được [11]. Thực hiện hành vi hại có thể được sử dụng như một cách để giải phóng tạm thời những cảm xúc đau buồn này. Tuy nhiên, bất chấp cảm giác giải tỏa ngắn hạn này, hành vi này sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực lâu dài hơn [6, 11,12].Khả năng kiểm soát Một số nghiên cứu mô tả cá nhân thực hiện hành vi tự hại như một cơ chế đối phó có thể gọi là phương tiện để họ kiểm soát vấn đề, giúp họ giải quyết vấn đề giữa các cá nhân hay để giảm bớt những khó khăn trong nội tâm; vết thương làm mất tập trung khỏi các tình huống thực tế đang đau đớn về cảm xúc, nỗi đau thể chất sẽ tạm thời thay thế cho nỗi đau tinh thần tại thời điểm đó của họ [1]. Ngoài ra, thói quen và sự lặp lại hành vi tự hại này có thể được coi là rối loạn kiểm soát xung động Impulse Control Disorders hội chứng tự cắt xén lặp đi lặp lại [1].Tự trừng phạt bản thân Cá nhân thực hiện hành vi tự hại như một cách để tự trừng phạt bản thân có thể làm thu hút sự chú ý và khiến người khác cảm thấy tội lỗi. Ngoài ra, người sử dụng hành vi tự hại của mình theo động lực này có thể nhằm mục đích ràng buộc mối quan hệ gắn bó với một cá nhân nào đó [11].Để “cảm nhận” điều gì đó Một yếu tố khác có thể đóng góp vào hành vi tự hại đó là để khơi gợi cảm xúc ''để cảm nhận điều gì đó bởi vì thanh thiếu niên đang cảm thấy tê liệt hoặc trống rỗng''. Những cá nhân này muốn cảm thấy điều gì đó, ngay cả khi cảm giác đó là đau đớn. Việc thực hiện hành vi tự hại để cảm nhận những cảm giác tích cực chẳng hạn như sự hài lòng, niềm vui hay sự phấn khích. Nghiên cứu giả thuyết rằng thực hiện hành vi tự hại sẽ dẫn đến giải phóng opiate nội sinh tham gia vào các cơ chế giảm đau để phản ứng với tổn thương mô, tạo ra cảm giác hưng phấn [4].Khả năng khơi gợi những cảm giác này có xu hướng củng cố hoặc thúc đẩy hành vi tự hại. Nhìn thấy máu trong khi thực hiện hành vi tự hại có thể là một khía cạnh củng cố của hành vi này vì người ta báo cáo rằng nhìn thấy máu giúp thanh thiếu niên cảm thấy chân thực và tập trung vào vết thương thể chất hơn là vết thương tinh thần [3].Tìm kiếm sự giúp đỡ Theo thông tin đã được cập nhật từ các nghiên cứu, hành vi tự hại đề cập đến hành vi trong đó các cá nhân khiến người khác tin rằng họ có ý định chết vì hành vi của mình khi họ thực sự không có ý định làm như vậy. Mục đích của hành vi này có thể là để giải tỏa với sự căng thẳng và / hoặc để tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác [6].b Các yếu tố môi trườngNgược đãi/ lạm dụng thời thơ ấu Hầu hết thanh thiếu niên sẽ có đầy đủ cơ chế đối phó để xử lý các thay đổi trong cuộc sống thay đổi của họ và có thể chuyển tiếp qua giai đoạn phát triển này một cách lành mạnh và tích cực. Tuy nhiên, nhiều yếu tố bên ngoài ví dụ trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi, cách thực hành nuôi dạy con kém của người chăm sóc và ảnh hưởng tiêu cực từ bạn bè,... và các yếu tố bên trong ví dụ rối loạn điều hòa cảm xúc và tâm lý căng thẳng có thể khiến thanh thiếu niên có nguy cơ thực hiện hành vi tự hại. Ví dụ thanh thiếu niên trải qua những trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi có nhiều nguy cơ phát triển biến dạng nhận thức có thể dẫn đến việc thực hiện các hành vi tự hại [2],[3]. Nghịch cảnh thơ ấu nghiêm trọng có liên quan đến rối loạn tâm thần, dẫn đến các hành vi tự hại nghiêm trọng hoặc thường xuyên hơn [3].Nhiều nghiên cứu tập trung vào trải nghiệm sang chấn thời thơ ấu cho thấy rằng các hành vi ngược đãi thời thơ ấu là một yếu tố rủi ro của hành vi tự hại ở thanh thiếu niên và sinh viên đại học [3,5]. Đặc biệt, trong số đó, việc bị lạm dụng cho thấy một mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của hành vi tự hại . Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra vai trò của mối quan hệ với cha mẹ và người chăm sóc trong nguyên nhân và sự phát triển của các hành vi tự hại. Ví dụ nghiên cứu cho thấy sự gắn bó không an toàn với cha mẹ là những yếu tố rủi ro về thực hiện hành vi tự hại ở cả phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, hành vi tự hại ở nam giới được dự đoán chính xác hơn bởi sự xa cách thời thơ ấu với cha [1].Trốn thoát khỏi các ký ức gây sang chấn Tiền sử bị lạm dụng/ ngược đãi thời thơ ấu và trải nghiệm cuộc sống căng thẳng có thể là những yếu tố rủi ro của tình trạng dễ bị tổn thương ở một cá nhân. Do đó, việc tránh né, muốn xóa bỏ các ký ức được khơi dậy có thể là mục tiêu khiến họ thực hiện hành vi tự hại [1]. Ngoài ra, cha mẹ có bệnh tâm thần và các rối loạn tâm lý, tiền sử gia đình có người thực hiện hành vi tự tử, gia đình tan vỡ, trải nghiệm mất mát, bất hòa trong gia đình… cũng có thể là các yếu tố rủi ro khiến họ thực hiện hành vi tự hại [2].Môi trường giáo dục không lành mạnh/ không thuận lợi cho sự phát triển cá nhân Không được đi học, không hài lòng với việc học hoặc gặp khó khăn trong học tập, bị bạn bè cô lập, bắt nạt,…có thể dẫn đến việc thanh thiếu niên không có nhiều cơ hội hòa nhập với mọi người xung quanh [2]. Người thực hiện hành vi tự hại có thể sử dụng hành vi này như một cách thức để bạn bè đồng trang lứa cảm thấy tội lỗi khi bắt nạt và bạo lực với họ ví dụ như bạo lực học đường hoặc các nhiệm vụ mà họ bắt cá nhân này tuân theo… [5].Thanh thiếu niên thực hiện hành vi tự hại có nhiều khả năng thực hiện những hành vi rủi ro khác như lạm dụng chất kích thích, hành vi tình dục nguy cơ và thói quen ăn uống không hợp lý [1]. Những người trưởng thành có tiền sử thực hiện hành vi tự hại đã bày tỏ thái độ tiêu cực đối với cơ thể và mức độ chăm sóc cơ thể thấp hơn [1]. Cá nhân thực hiện hành vi tự hại có thể bị tổn thương thể chất lâu dài và có nguy cơ tử vong cao hơn do tự tử/ tự sát [11-13]. Bên cạnh đó, một nghiên cứu lớn cũng chỉ ra rằng nam giới và phụ nữ điều chỉnh cảm xúc của họ theo những cách khác nhau [12]. Bên cạnh việc nữ giới cũng thường có xu hướng thực hiện hành vi tự hại hơn nam giới, sự khác biệt giới còn được nhìn thấy trong các phương pháp được cá nhân sử dụng. Trong đó, phương thức tự cắt phổ biến ở nữ giới [2] và các phương thức tự đánh đập và tự làm bỏng là phổ biến nhất ở nam giới [2,12]. Ngoài ra, nam giới có nhiều khả năng thực hiện hành vi tự hại vì lý do xã hội và nữ giới thực hiện hành vi này phần lớn để giảm bớt trạng thái cảm xúc tiêu cực và tự trừng phạt bản thân [1]. Hơn nữa, có ý kiến cho rằng sự khác biệt giới sẽ tồn tại hoặc thể hiện rõ rệt hơn ở trẻ nhỏ hơn [12-14]. Vì vậy, sự khác biệt giới cũng có thể tác động đến phương thức cá nhân sử dụng cũng như các động lực hình thành hành vi tự hại ở mỗi cá nhân sẽ dẫn đến nguy cơ tự tử về sau cao hơn hay thấp hơn [5,11]. Nguy cơ tự tử gia tăng này bắt nguồn từ thói quen cảm nhận cảm giác đau đớn theo thời gian, giảm cảm nhận đau đớn và giảm sợ hãi đối với các rào cản tự tử vì sợ đau [3,5]. Dấu hiệu nhận biết hành vi tự hạiNhững hành vi tự hại nếu không được phát hiện và ngăn chặn kịp thời có thể để lại hậu quả nghiêm trọng không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần, thậm chí là tính mạng của cá nhân người thực hiện hành vi tự hại. Việc xác định các dấu hiệu là điều cần thiết để cá nhân có thể nhận được những sự giúp đỡ phù hợp và kịp thời. Sau đây là một số dấu hiệu tham khảo [2,5,10]Xuất hiện nhiều dấu hiệu tự hại trên cơ thể thường xuyên có vết cắt, vết bỏng, vết bầm tím hoặc sẹo ở cánh tay, đùi trong......Che giấu các vật dụng tiềm ẩn gây nguy hiểm trữ các vật sắc nhọn hoặc dụng cụ cắt trong người mà không có lý do rõ ràng như lưỡi dao lam, kim tiêm, mảnh thủy tinh, hộp quẹt,...Thường mặc các trang phục kín đáo với mục đích che kín cơ thể ví dụ hay ăn mặc không phù hợp với thời tiết tức là hay mặc áo tay dài, quần dài, cổ áo cao,…ngay cả trong thời tiết nóng bức. Ngoài ra, trên quần áo họ mặc thường thấm các vết hay cản trở việc tự chữa lành của vết nghĩ/ cảm xúc tiêu cực xuất hiện nhiều chẳng hạn như khí sắc trầm hoặc hay lo âu và suy ngẫm lặp đi lặp lại về hành vi tự hại….Tránh né hoặc miễn cưỡng tham gia các hoạt động có thể làm lộ vết thương cơ chữa về chấn thương của mình khi vô tình để lộ và người khác hỏi về nguyên nhân của vết đổi cân nặng cơ thể nhanh chóng tăng cân/ sụt cân nghiêm trọng.Thường xuyên lạm dụng rượu, thuốc và chất kích thể có thái độ cáu gắt, khó chịu khi bị đụng chạm vào cơ chế hoặc gặp khó khăn trong các kỹ năng xã hội và tạo mối quan hệ với mọi được ở một mình hoặc tự cô lập bản thân…Lời KếtHãy nhớ rằng, không phải lúc nào tất cả những hành vi hay các yếu tố rủi ro kể trên đều có thể dẫn đến việc cá nhân thực hiện hành vi tự hại. Bản chất, dấu hiệu, và ý nghĩa của việc tự hại có thể khác nhau rất nhiều ở mỗi người. Vì vậy, việc tìm hiểu về “tự hại” giúp chúng ta có góc nhìn khách quan hơn để cảm thông và hỗ trợ vấn đề kịp thời. Biên tập Hương Lê Thiết kế El EiNguồn tham khảo[1] Cipriano A, Cella S, Cotrufo P. Nonsuicidal self-injury A systematic review. Frontiers in psychology. 2017 Nov 8;81946.[2] Alison Wood. Self-harm in adolescents. Advances in psychiatric treatment 2009, vol. 15, 434–441. [3] Gail Hornor, RNC, DNP, CPNP. Nonsuicidal Self-Injury. Journal of Pediatric Health Care. 2016. Volume 30. Number 3. [4] Klonsky ED The functions of deliberate self-injury A review of the evidence. Clin Psychol Rev 2007, 27226-239.[5] John Peterson, MD, Stacey Freedenthal, PhD, Christopher Sheldon, PhD, and Randy Andersen, LCSW. Nonsuicidal Self injury in Adolescents. Psychiatry Edgmont. 2008 Nov; 511 20–26. [6] Nock MK Self-injury. Ann Rev Clin Psychol 2010, 6 Andover MS, Gibb BE Non-suicidal self-injury, attempted suicide, and suicidal intent among psychiatric inpatients. Psychiatry Res 2010, 178101-105.[8] Muehlenkamp JJ, Kerr PK Untangling the self-harm web How nonsuicidal self-injury and suicide attempts differ. Prev Res 2010, 178-10.[9] Whitlock J, Muehlenkamp JJ, Purington A, Eckenrode J, et al Non-suicidal self-injury as a gateway to suicide in young adults., Manuscript under review.[10] Janis Whitlock, Matthew Selekman. Non-suicidal self-injury NSSI across the lifespan. 2013 Jan.[11] American Psychiatric Association. 2013. Diagnostic and statistical manual of mental disorders 5th ed.. Psychiatric Association APA 1994. Diagnostic and statistical manual of mental disorders 4th ed. DSM-IV, Washington DC American Psychiatric Association.[13]Aine M. Butler and Kevin Malone. Attempted suicide v. non-suicidal self-injury behaviour, syndrome or diagnosis?. The British Journal of Psychiatry 2013. 202, 324– Konrad Bresin. Gender differences in the prevalence of nonsuicidal self-injury A meta-analysis. 2010.[15] Klonsky, E. D., & Lewis, S. P. 2014. Assessment of nonsuicidal self-injury. In M. K. Nock Ed., The Oxford handbook of suicide and self-injury pp. 337–351. Oxford University Press. [16] Janis Whitlock, Matthew Selekman. Non-suicidal self-injury NSSI across the lifespan. 2013 Jan. Hành vi của trẻ – đến một độ tuổi nhất định – dù ai hỏi gì bé toàn trả lời Không … đôi khi làm cha mẹ điên đầu. Hãy cùng tìm hiểu hành vi bé nhé! Chứng mất trí nhớ Theo Tiến sĩ Paul Frankland, một nhà khoa học nghiên cứu cấp cao tại Bệnh viện Nhi ở Toronto, chứng mất trí nhớ trẻ con được gây ra bởi sự phát triển nhanh chóng của các tế bào thần kinh trong một phần của não cho việc ghi nhớ các sự kiện và giữ lại như kỷ niệm. Do một “quá tải” trong vùng hippocampus khi hình thành tế bào thần kinh mới. Hồi hải mã hay hồi cá ngựa hippocampus là một phần của não trước, là một cấu trúc nằm bên trong thuỳ thái dương. Nó tạo thành một phần của hệ thống Limbic và có liên quan đến hoạt động lưu giữ thông tin và hình thành ký ức trong trí nhớ dài hạn và khả năng định hướng trong không gian. Chứng mất trí nhớ Điều này có nghĩa là, Đó là các bộ nhớ cho kỹ năng phát triển nhanh hơn so với bộ nhớ cho các sự kiện. Trẻ mới biết đi rất bận rộn cho việc học các kỹ năng mới, điều này làm trẻ dễ quên hoặc bỏ ngoài không biết bao lần khi bạn nói với con là “KHÔNG”. Bạn nên biết rằng bé đang làm tốt nhất trong việc học tập và phát triển theo quy trình cảu bé. Hãy kiên nhẫn và nhẹ nhàng nhắc lại nhiều lần thông tin bạn cần truyền tài cho bé – sau tất cả, bé có thể không cố tình làm việc đó. Các thử nghiệm chuột mê cung Hành vi của trẻ – bất mãn Để kiểm tra giả thuyết này, Tiến sĩ Frankland thực hiện một thử nghiệm trên một nhóm các chú chuột con. Ông cố tình làm chậm lại sự phát triển của vùng hippocampus của chuột. Lúc đầu, ông đã dạy những con chuột thế nào để đi qua mê cung và cũng giống như trẻ con, những con chuột bé thực sự không nhớ làm thế nào để định hướng mê cung trong một vài ngày. Tuy nhiên, với tế bào thần kinh của họ đặt vào việc phát triển với một tốc độ chậm hơn, những động vật gặm nhấm có thể thực sự nhớ làm thế nào để tìm đường ra khỏi mê cung ngày sau khi được đào tạo. Kiên nhẫn với bé là điều quan trọng Bạn có thể không tin các thí nghiệm trên vì sự so sánh không hợp lý giữa một em bé với một loạt các động vật gặm nhấm. Những gì chúng tôi đang cố gắng để nói là, hãy kiên nhẫn với bé con. bé mới biết đi sẽ học tập và phát triển nhanh theo quy trình của họ – bộ não củabé đang vội vã để lưu trữ tất cả các thông tin mà bé có thể lưu trữ. Vì điều này, đôi khi bé sẽ mau quên về những việc bạn dạy hay luôn nhắc nhỡ bé. Chúng tôi chắc chắn rằng không lâu nữa với quy trình phát triển của mình, bé sẽ không bỏ đồ chơi mà trong miệng hoặc trèo lên bàn ghế nữa! Thay đổi cách tiếp cận bé Hành vi của trẻ thay đổi Nếu bé vẫn không chịu lắng nghe những gì bạn nói, có lẽ đó là thời gian bạn nên thay đổi cách tiếp cận khác. Có lẽ bạn đang quá nghiêm khắc và khó khăn cho bé, cho bé quá nhiều sự chỉ dẫn qua lời nói hoặc thậm chí không tin vào phương pháp của riêng bạn. Trẻ em có thể cảm nhận được những điều này, một khi trẻ cảm thấy rằng bạn không quá chắc chắn về bản thân và hướng dẫn bạn đang đem lại cho trẻ, họ sẽ không cảm thấy nhu cầu hay động lực để làm theo lời bạn đang nói. Các cách nói khác Dùng cụm từ câu của mình khác đi, tránh kết thúc câu với những câu hỏi như “được không?” Hoặc “là tốt không?” Hãy quyết đoán hơn một chút, hãy nhớ vẫn nhẹ nhàng nhưng cương quyết. Làm điều này trong khi cố gắng để nhìn mọi thứ từ quan điểm của con mình xem. Hãy để họ biết rằng bạn biết chỉ dẫn của bạn có thể không phải là lựa chọn thú vị nhất nhưng nó cần phải được thực hiện. Trẻ em, như với tất cả mọi người, thích cảm thấy kiểm soát và muốn đưa ra một tiếng nói trong mọi thứ. Khi trẻ cảm thấy như bạn hiểu lý do tại sao họ không muốn rời khỏi sân chơi’ hay nghĩ rằng vệ sinh là một sự lãng phí thời gian, trẻ sẽ sẵn sàng hơn để làm như vậy. Hãy nhớ rằng, con cũng muốn được thể hiện sự quan trọng của mình và các ý kiến suy nghĩ của mình cũng quan trọng và có người quan tâm, thông cảm! Nguồn – Đọc thêm Dạy con lòng từ bi có quan trọng không? Mẹ dạy con trai những điều gì để hình thành nhân cách tốt từ nhỏ? Dạy con tự tin hơn giúp con trở thành thiên tài trong tương lai Vào ngay Fanpage của the Asianparent Vietnam để cùng thảo luận và cập nhật thông tin cùng các cha mẹ khác! Bạn có quan tâm tới việc nuôi dạy con không? Đọc các bài báo chuyên đề và nhận câu trả lời tức thì trên app. Tải app Cộng đồng theAsianparent trên IOS hay Android ngay! Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Bùi Ngọc Phương Hòa - Bác sĩ Nội đa khoa - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Bệnh rối loạn hành vi ở trẻ em là nhóm các vấn đề về hành vi và cảm xúc, thường bắt đầu từ thời thiếu niên hoặc ở trẻ vị thành niên. Trên toàn thế giới hiện nay, khoảng 20% thanh thiếu niên mắc phải các rối loạn về hành vi và cảm xúc cần phải được điều trị. Đây là bệnh lý hay gặp ở lứa tuổi vị thành niên. Trên toàn thế giới hiện nay, khoảng 20% thanh thiếu niên mắc phải các rối loạn về hành vi và cảm xúc cần phải được điều trị. Đây là bệnh lý hay gặp ở lứa tuổi vị thành rối loạn hành vi ở trẻ em là nhóm các vấn đề về hành vi và cảm xúc, thường bắt đầu từ thời thiếu niên hoặc ở trẻ vị thành niên. Khi mắc các rối loạn này, trẻ em thường không tuân theo các nguyên tắc hành xử thông thường của xã loạn hành vi gồm 2 loại dựa trên độ tuổi khởi phát rối loạn hành vi thể khởi phát trẻ em trẻ dưới 10 tuổi và rối loạn hành vi thể khởi phát tuổi thanh thiếu niên sau 10 tuổi.Trẻ bị rối loạn hành vi cần phải được điều trị. Đồng thời cần có sự kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để giúp cho bệnh rối loạn hành vi ở trẻ đạt kết quả tốt nhất. 2. Biểu hiện và triệu chứng của trẻ bị rối loạn hành vi Trẻ bị rối loạn hành vi thường cư xử rất hung hãn với mọi người hoặc mọi vật xung quanh Trẻ bị rối loạn hành vi thường rất khó khăn để kiểm soát hành vi của bản thân và không tuân theo bất cứ nguyên tắc nào đã đặt hành động do người bị rối loạn hành vi thường thể hiện một cách bột phát mà không lường được hậu quả của hành động đó. Người bệnh cũng không quan tâm tới cảm xúc của người loạn hành vi ở trẻ em có thể biểu hiện qua các triệu chứng sau đâyNgười mắc bệnh rối loạn hành vi thường kéo dài tối thiểu từ 3- 6 thángCư xử hung hãn với mọi người xung quanh, kể các với các đồ vật hoặc con vật...Thường phá phách, trốn học, đánh nhauHay nói dốiCó những hành động gây hại cho những người xung quanhCô lập bản thân, thu mình khỏi xã hộiTăng động, giảm chú ýTrẻ bị rối loạn hành vi thường chán ăn hoặc ăn rất nhiềuCó những hành động gây hại tới bản thânGặp khó khăn trong việc tiếp thu và diễn đạt thông tin, khó khăn khi tính toán, nói, viết...Không chuyện trò, giao tiếpNếu không được điều trị kịp thời, người bệnh sẽ phải điều trị về các bệnh lý tâm loạn hành vi ở thanh thiếu niên hiện nay vô cùng phức tạp. Khi rơi vào tình trạng rối loạn cảm xúc lưỡng cực, thanh thiếu niên thường có hành vi tử tự. Trong giai đoạn đầu, người bệnh sẽ có những triệu chứng điển hình như nói nhiều, đi lại nhiều, dễ bị kích động, hay cáu gắt. Ở giai đoạn ức chế, trẻ có biểu hiện trầm cảm, mệt mỏi, tự ti. 3. Nguyên nhân của bệnh rối loạn hành vi trẻ em Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bệnh rối loạn hành vi ở trẻ em. Thường thì ít khi chỉ do một nguyên nhân chính xác nào đó. Một số yếu tố gây nên gồmDo các yếu tố sinh học như yếu tố di truyền, các rối loạn chuyển hóa...Do các chấn thương như chấn thương não, tổn thương hệ thần kinh trung các yếu tố từ môi trường tác động như trẻ bị bạo hành từ nhỏ, gia đình không hạnh phúc, gặp biến cố lớn ảnh hưởng tới tâm lý...Bệnh lý này sẽ có thể tiến triển thành bệnh tâm thần nếu không được thăm khám kịp thời và điều trị sớm. Gia đình không hạnh phúc có thể khiến hành vi của bé bị ảnh hưởng 4. Tác hại của bệnh rối loạn hành vi Rối loạn hành vi không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh mà còn gây ảnh hưởng tới những người xung hại tới bản thân bằng những hành động bộc phát, không suy nghĩNhững hành động thô bạo gây ảnh hưởng lớn đến cộng đồng và những người xung quanhKhó thích nghi với xã hội, cô lập bản thânGặp các vấn đề liên quan đến pháp luật do có những hành động gây gổ, chống đối. 5. Phòng tránh và điều trị bệnh rối loạn hành vi Nơi trẻ cần nhất vẫn là gia đình, chính vì vậy gia đình cần phải yêu thương, quan tâm đồng thời là nơi chia sẻ với có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giúp trẻ nhanh hòa nhập xã hội, không thu hẹp mình. Khi có những biểu hiện của bệnh, trẻ cần được phát hiện kịp trì trong cách dạy dỗ, chăm sóc con, tránh dùng các hành động thô bạo đối với bị bệnh rối loạn hành vi cần được thăm khám và điều trị kịp thời để tránh hậu quả nặng nề về sau. Các chuyên gia y tế sẽ đưa ra liệu pháp tâm lý giúp người bệnh nhận thức được cảm xúc và suy nghĩ lên hành vi..Hiện nay, ngày càng nhiều trẻ em, thanh thiếu niên mắc bệnh rối loạn hành vi. Để giảm thiểu tình trạng này cần có sự phối hợp chặt chẽ của gia đình, nhà trường, xã hội, các cơ quan đoàn thể... Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Trẻ diễn biến tâm lý thất thường, có ý định tự tử, phải làm thế nào? Quan hệ tình dục sớm ở tuổi 16, 17 có hệ lụy nào không? Thuốc Stogurad có tác dụng gì? Đời sốngTổ ấm Thứ hai, 8/2/2021, 1025 GMT+7 Trẻ con dọa bỏ nhà đi, buôn chuyện, tỏ ra khó chịu khi nhận được món quà không như mong đợi... là những hành vi cha mẹ cần lưu tâm để tránh hậu quả đáng tiếc. Khó khăn khi học mọi thứTheo nhà tâm lý học học đường Ann Logsdon Mỹ, nếu con gặp khó khăn trong việc học những kỹ năng cơ bản, chúng có thể khiếm khuyết trong việc học tập. Phát hiện sớm là chìa khóa để ngăn chặn yếu điểm này. Bởi nếu con có được sự giúp đỡ cần thiết và được giáo viên chuyên biệt ở trường giúp đỡ, chúng sẽ sớm 'ngồi lê đôi mách'Cần phân biệt giữa những chuyện phiếm vô hại và lời tán gẫu có hại. Dù trẻ ít khi nói linh tinh, nhưng nếu chúng đã cất lời, câu chuyện rất dễ lan giáo sư nghiên cứu tâm lý giáo dục tại Đại học Washington ở Seattle, Karin S. Frey, giải thích "Trẻ em ở độ tuổi này nói chuyện phiếm để thử nghiệm xem chúng có quyền lực và ảnh hưởng như thế nào đối với người khác. Chúng cũng tin điều này sẽ giúp mình nổi tiếng hơn".Cha mẹ cần giải thích cho con tại sao không nên như vậy. Hãy cảnh báo trẻ, khi "ngồi lê đôi mách", rất có thể người khác cũng đang nói xấu sau lưng con. Nếu không muốn đứa trẻ trở thành người buôn chuyện, bạn có thể nhờ sự hỗ trợ từ giáo viên của làm hại mìnhCố ý tự làm hại bản thân DSH là hành vi một người tự gây tổn hại cho bản cứu trên trang Psychiatric Times năm 2011 cho hay, nguyên nhân dẫn đến hành vi này là do trẻ trầm cảm quá mức, lòng tự trọng bị tổn thường, cảm giác vô vọng kéo dài, bốc đồng, là nạn nhân bắt nạt học đường, xung đột gia đình, nghèo đói hoặc lạm thường có xu hướng tự cấu véo, cào hoặc đấm. Thanh niên thiếu niên thì hay rạch đầu tiên cha mẹ cần làm khi trẻ hành động như vậy là quan tâm con sát sao hơn. Sau đó, cần đưa trẻ đi trị liệu để giải tỏa cảm xúc tiêu cực. Ảnh minh họa Brightside. Con dọa bỏ điĐây là hành vi cho thấy trẻ bị căng thẳng quá mức. Chúng chạy trốn để tránh bị sỉ nhục hoặc xấu hổ vì hành động sai trái. Nguyên nhân là do trẻ thường lý tưởng hóa việc bỏ khỏi nhà và tưởng tượng một cuộc sống đường phố đầy màu trường hợp này, cha mẹ nên nói chuyện với con, xây dựng mối quan hệ tin cậy để trẻ thoải mái chia mất ngủ ban đêmNếu trẻ từng ngủ ngon nhưng đột nhiên gián đoạn giấc ngủ hoặc không thể ngủ, bạn cần đặc biệt lưu tâm. Không phải con cố tình ngủ muộn hay mè nheo bố mẹ. Có thể chúng đang thấy mối đe dọa đang rình tốt nhất là nên trò chuyện để tìm nguyên nhân sợ hãi và giúp trẻ vượt cảmĐôi khi con bạn sẽ phải vật lộn với trầm cảm. Con nói những lời khiến bạn lo cho sự an toàn của chúng. Nếu trẻ nổi loạn và có hành vi không lành mạnh, có thể do ở trường, mối quan hệ với bạn bè của chúng đang khó cảm xúc của trẻ cần được chấp nhận một cách nhẹ nhàng, không thúc ép. Nếu trẻ nói muốn tự làm hại mình, bạn đừng nên coi đó là lời nói suông. Hãy tìm sự trợ giúp của chuyên ngừng chơi với bạnTrẻ con cũng có những bất đồng và thường giải quyết khá nhanh. Tuy nhiên, khi lũ trẻ có tranh chấp, bạn đừng gọi ngay cho phụ huynh của bạn con. Hãy thử gợi ý cách giải quyết vấn đề cho trẻ. Ví dụ, cùng con thực hành nói lời xin lỗi để trẻ có thể học cách xin lỗi bạn nếu làm sai. Ảnh minh họa Brightside. Nổi cơn tam bành Đó có thể là do chúng đang vật lộn để đối phó với những cảm xúc không mong muốn như tức giận, buồn hoặc thất vọng. Một lý do khác khiến cơn giận dữ xảy ra là trẻ cố kiểm soát tình hình. Phụ huynh hãy lùi lại một bước kiên nhẫn xem xét tình hình trước khi xử lý. Ví dụ, nếu con bạn luôn được mua một món đồ chơi khi vào cửa hàng nhưng sau đó thì không, trẻ sẽ nổi cơn thịnh nộ. Vì vậy, trước khi đi mua sắm, hãy giải thích với con chỉ vào mua đồ dùng thiết yếu, không phải đồ chơi. Con vô ơn Đôi khi trẻ thốt ra những lời rất thô lỗ và vô ơn. Trong tiệc sinh nhật, khi ai đó tặng quà, con không quan tâm, tỏ vẻ không vừa lòng. Nếu hiểu hành vi của chúng ảnh hưởng thế nào đến người khác, chúng sẽ biết đồng cảm hơn. Hãy giúp trẻ nhận ra để có được món quà, người tặng tốn kém tiền bạc, thời gian như thế nào. Con nói nhiều Trẻ con thi thoảng cũng nói nhiều, nhưng nếu quá mức thì sẽ có vấn đề. Nguyên nhân của tình trạng này có thể do trẻ muốn tìm cách thu hút sự chú ý của cha mẹ. Chúng làm vậy khi thấy mình bị phớt lờ hoặc bị bỏ rơi. Hãy quan tâm con hơn. Xây dựng kỷ luật để con tuân theo. Hãy nói với trẻ rằng con không được phép la hét hoặc cãi lại. Nhật Minh theo Brightside

hành vi của trẻ